Thứ Bảy, 28 tháng 2, 2015

Lên chùa Ông Núi mặc áo vỏ cây

(BĐO) - Đã thành lệ, 24,25 tháng Giêng: lễ hội chùa Ông Núi đã thu hút bước chân du khách trong và ngoài tỉnh, nườm nượp hành trình du lịch tâm linh.
Đến Quy Nhơn, có nhiều ngả đường thăm chùa Ông Núi. Có thể ra thị trấn Ngô Mây quành xuống, có thể từ Tuy Phước đi tới, nhưng gần nhất là qua cầu Thị Nại đi ra.

Núi Bà nằm gọn trong lòng Phù Cát, với nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa, trong đó nổi tiếng là chùa Ông Núi, tọa lạc trên sườn non hùng vĩ ngoảnh mặt ra đầm Thị Nại đổ về biển Đông. Đại Nam nhất thống chí ghi: “Chùa Linh Phong ở thôn Phương Phi, huyện Phù Cát, lưng dựa vào núi cao (núi Bà), mặt trông ra đầm Biển Cạn (tức đầm Thị Nại), xung quanh có nước suối lượn quanh phong cảnh thật đẹp”. Sách Đại Nam Dư địa chi ước biên chép: “… nhìn ra đầm Hạc Hải (tức đầm Thị Nại), hoa cỏ đẹp tươi”.

Mặc áo vỏ cây, cảm hóa được chim muông dã thú

Theo “Linh Phong tự ký” của Đào Tấn, ngôi chùa gắn liền với vị danh tăng Mộc Y sơn ông, họ Lê tên Ban, pháp hiệu Thiện Trì thiền sư, sống từ cuối thế kỷ XVII đến thời Tây Sơn. Đào Tấn tuy dẫn nguồn khảo cứu trong Sơn môn phả và Pháp tọa thế thứ đồ vị, nhưng sau đó cũng tỏ ý nghi vấn về tên gọi Lê Ban và cho rằng biết đâu đây là kẻ lánh đời giấu tên, phát gai vác đá, kết cỏ làm tranh dựng lên cái am nhỏ đặt tên là Dũng Tuyền tự. Đó là tên khởi thủy của chùa Ông Núi.

Tương truyền, ông có hành tung khá kỳ bí, hàng ngày vào núi hái củi đem xuống đặt ở vệ đường, người qua lại nhận biết đem gạo và rau đến, cứ đặt đó rồi mang củi đi, không giáp mặt ông. Không hỏi han, không so đo tính toán. Và cũng không ai biết tăm tích về ông ngoài việc người ta đồn rằng cọp beo cũng quen thuộc, đến nghe ông gõ mõ tụng kinh, nhiều lúc còn mang về dâng cúng những nhánh trĩu trái cây rừng.

Và con người mặc áo vỏ cây, cảm hóa được cả chim muông dã thú, biến rừng suối hoang vu thành linh địa ấy đã làm động lòng vua chúa. Năm Quý Sửu 1733, niên hiệu Vĩnh Khánh nhà Lê, chúa Nguyễn Phúc Trú cho trùng tu, ban cho Ông Núi hiệu Tịnh Giác Thiện Trì đại lão thiền sư ban biển “Linh Phong thiền tự” và câu đối Quốc chủ ngự đề: “Hải ngạn khởi lương nhân, pháp vũ phổ thiên tư Phật thổ - Linh Phong ngưng thoại khí, tường vân biến địa ấm nhân gian” (Bờ biển gặp duyên may, mưa pháp khắp trời thấm nhuần đất Phật - Núi Linh đọng khí tốt, mây lành khắp chốn che chở người đời).

< Chánh điện chùa Ông Núi.

Năm Tân Dậu, thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, chúa triệu Ông Núi về kinh hỏi han thiền lý và ban tặng ông một bộ cà sa vòng ngọc móc vàng để làm pháp phục.

Ông Núi viên tịch vào thời Tây Sơn, tăng chúng hội táng bên phải chùa vào năm Thái Đức thứ 8 (1785) và đề câu đối: “Quyện thạch tiệm thành sơn, thảng thảng u trinh Thường lạc thổ - Chúng lưu nan vi thủy, man man vô tế Động đình tiên” (Gom đá thành non, đất Thường lạc thênh thang tĩnh mịch - Hợp giòng nên nước, cõi Động đình bát ngát mênh mông”). Cũng có người cho rằng ông đã đi đâu trong cõi ngàn xanh mây gió, thời Trương Phúc Loan chuyên quyền, xứ sở Đàng Trong loạn lạc. Ngôi tháp xây sau này do thế hệ truyền thừa tưởng niệm. Dulichgo

Theo Linh Phong tự ký, năm năm Gia Long thứ 7 (1808), Thánh Mẫu Hiếu Khang Hoàng Hậu có chỉ cấm không được xâm thủ các vật hạng trong chùa Linh Phong, chuẩn bị việc trùng tu chùa. Năm Minh Mạng thứ 7 (1826), sắc lệnh trấn thần bản tỉnh đệ tường mấy bộ đồ pháp phục tiền triều đã ban về kinh xem, sau lại ban thêm một bộ áo cà sa ngọc hoàn kim câu để đổi lấy bộ áo cũ và bạc 120 lượng cho trấn thần tu bổ lại chùa.

Cũng có truyền thuyết nói sự việc trên xảy ra sau vụ vua Minh Mạng ốm nặng, nằm mộng thấy một ông thầy chùa bận áo da cây, cầm quạt đứng bên ngọc sàn mà quạt. Sáng ra thánh thể được khỏe khoắn. Nhân đó nhớ đến việc Ông Núi bận áo da cây ở chùa Linh Phong về tiền triều, vua lấy làm lạ, nên đền ơn đất Phật.

< Từ trên cao nhìn xuống thấy dòng người đổ xô lên núi viếng chùa.

Thời Kiến Phúc Hàm Nghi, Đào Tấn từ quan lánh lên chùa, ông sưu tầm di tích Ông Núi mà không thấy bi ký, chỉ tìm được đôi mảnh giấy có ghi ngày tháng, đem khảo sát với Việt Sử Ký và Bản triều Thực lục Tiền biên. Đặc biệt, ông tìm thấy bộ sách "Pháp Hoa kinh gỉai" tự Ông Núi sửa soạn hơn 200 quyển và 7 cái Đồ Chương bằng ngọc thạch khắc bằng chữ triện: “Ban Sơn Trung Tự", "Khai sơn Dũng Tuyền tăng”, “Nhân hiệu Sơn Ông", "Thạch trung kiến ngã", "Tịch phương", "Tịch tánh", "Thạch thất", chùi lau sạch sẽ, đựng chung với cái tráp đựng bộ "Pháp Hoa kinh giới" giao thầy chùa giữ kỹ. Cũng có đôi cái giấy do tự tích Ông Núi đề vịnh nhưng người sau không biết đem bồi liễn, không đọc được nữa.

Năm Thành Thái, Ất Mùi, thứ bảy (1895) Đào Tấn lúc ấy là Thượng thư bộ Công có tâu sự ấy. Trên Tây cung có ban bạc 70 lượng khiến tỉnh thần khuyến hiểu quyên thêm tu bổ chùa. Đến năm Đinh Dậu, thứ 9 (1897) thì hoàn tất.

Như vậy, chùa Ông Núi còn lưu lại nhiều di sản thơ văn cũng như các bản khắc gỗ chú giải kinh Liên Hoa của chính vị tăng chủ khai sơn phá thạch là Ông Núi, nhưng qua bao biến thiên, tất cả đã hòa lẫn cùng mây xanh suối biếc.

Mảnh đất có số phận bi hùng

Trèo lên hàng trăm bậc đá tìm về hang Tổ, nghe suối chảy mây bay, nhớ chuyện xưa hơn ba trăm năm, thấy một nỗi trầm luân của vùng linh địa!

Thập kỷ thứ 6 của thế kỷ trước, nhà thơ Quách Tấn viếng chùa, còn ghi lại trong “Nước non Bình Định”: “ Dọc đường khi đi cũng như khi về, thường nghe các em mục đồng, các chàng ngư phủ, với một giọng thật thà, đôn hậu, hát những câu hát về Ông Núi, khi thì thánh thót, như: “ Cây che đá chất chập chùng - Biển giăng dưới núi chùa lồng trong mây - Bụi đời không gợn mảy may - Chút thân rộng tháng ngày dài thảnh thơi”. Khi thì ngầm chứa nỗi u hoài, như: “ Ông Núi đi đâu - Bỏ bầu sơn thủy - Đủ nhân đủ trí - Thêm vĩ thêm kỳ - Chùa xưa nhạt bóng tà huy - Xuôi lòng non nước nặng vì nước non”.

< Một góc cảnh quan chùa Ông Núi.

Dưới chân núi Phương Phi tọa lạc chùa ông Núi, gắn liền với một bãi biển nổi tiếng của xứ sở Đàng Trong thời mở cõi. Gọi là Cách Thử, Cửa Thử, Kẻ Thử hay Khách Thử là tùy từng người với cách giải thích hơi lung linh biến động một chút. Có sao đâu, điều này chỉ khoác lên sắc áo nhiều mầu cho một cơ thể đất đai cổ tích, một trong những địa danh vào loại xưa nhất trong lịch sử văn hóa người Việt Đàng Trong. Ở đây, trong lòng biển có dấu chân của núi và trên vầng trán núi có vết hằn sóng biển, con người đứng giữa tầm gợi mở và thách thức của cả đại dương lẫn đại ngàn.

Truyền rằng đây là nơi tiếp đón các đoàn thuyền phiêu tán từ Đàng Ngoài vào trong cuộc di dân hoặc “lưu đày viễn châu”. Các thuyền buôn Âu Á cũng từng cập bến. Đây còn là miền giao cảm âm dương. Trí giả lẫn bịp bợm, sư sãi lẫn phù thủy, thi nhân lẫn tội đồ, thương gia lẫn cùng đinh, thánh thần lẫn ma quỷ… Chậu nước dùng để thử tiền, đồng chìm tiền người dương gian, đồng nổi tiền người địa phủ đã khái quát bầu trời tranh tối tranh sáng của xứ sở phên giậu mà Khách Thử là cửa ngõ ngàn trùng. Hai tiếng “bể dâu” trong điển tích thật hết sức đúng với trường hợp Khách Thử.

< Du khách phải đi bộ qua hàng trăm bậc đá để lên chùa.

Từ một thương cảng phồn vinh trong quá khứ, Khách Thử bị bồi lấp dần và nhường vai trò cho cảng thị Nước Mặn rồi Nước Mặn cũng bị bồi lấp dần để nhường vai trò lại cho Quy Nhơn. Các cuộc luân hoán ngôi vị ấy đã diễn ra cứ vài ba thế kỷ một lần. Không rõ các nhà khảo cổ học soát xét thế nào về những mảnh sành, đồng tiền cổ, khúc dây neo… lẫn trong mấy tầng tro bụi quá khứ, đọc được lời gào thét hoặc thủ thỉ nào của những cuộc phiêu du văn hóa, trên dấu chân Giao Chỉ lần từng bước đi về phương Nam.

Một mảnh đất có số phận bi hùng, dù chỉ là một cửa bể loi thoi nhưng từng hạt cát của nó đều ẩn tàng mối bận tâm chung của cả một dải Nam Trung bộ với nhiều bí ẩn trong mối quan hệ đa nghĩa Chiêm Việt. Những liên tưởng diệu vợi về một dĩ vãng ngui ngút đã níu tôi lại với một gương mặt khả ái và bi thương của lịch sử, một người phụ nữ mà cuộc hôn nhân 1306 làm cho người Việt đất này phải thọ ơn: Huyền Trân công chúa. Dulichgo

< Cổng chùa từ dưới chân núi Bà.

Tôi giở “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sĩ Liên ra lọc những dòng ít ỏi và cay đắng, tìm lấy một vị mặn của số phận mỹ nhân. Rồi tôi nhớ lại “Am mây ngủ” của Thích Nhất Hạnh trước đây mình say sưa đọc, nhìn lại tình yêu đứt đoạn vì cái chết của Harijit, tức “con sư tử chiến thắng” Chế Mân, cuộc vượt biển lịch sử của hoàng hậu Chăm-pa Paramesvari qua cảm quan văn chương và thiền học. Khi sự cứu rỗi của tri thức, của những tâm hồn đồng điệu với những vấn đề mình quan tâm đã thấm, tôi đi tìm chính tôi.

Tôi đi ngang qua Vĩnh Hội, ngước lên chiêm ngưỡng hòn Vọng Phu, rẽ về chợ Khách Thử nghe hoa trái thôn quê, lên núi Phương Phi dùng cơm rau dưa với sư trụ trì chùa Ông Núi bây giờ, tối được chú tiểu dẫn ra mỏm đá cheo leo ngồi uống rượu ngắm biển và trăng. Bầu không khí của hơn bảy thế kỷ trước đột nhiên dâng lên, cho phép tôi kiến trúc một bài thơ với cái tứ bão giông và nhói buốt.

Linh tính mách bảo rằng cuộc vượt về cố quốc của Huyền Trân công chúa là từ cửa biển này, cái cửa biển cách kinh thành Đồ Bàn khoảng vài chục cây số, nằm trong tầm khống chế của thành Thi Nại cách đây không xa, một địa điểm quản lý hải khẩu của nhà nước Chăm-pa, vừa có chức năng quân cảng lẫn thương cảng.

Lễ trà tỳ của Chế Mân có thể là nơi tôi ngồi đây, một mỏm núi cửa bể trong hệ thống Pô Chinh Đại Sơn xưa đầy những kỳ nam trầm hương giành cho nghi thức liên kết âm dương của hoàng đế băng hà. Mấy tháng sau, cái cảnh huống cướp Huyền Trân về bằng thuyền nhẹ mà bộ sử cái của Đại Việt ghi lại với những chi tiết sự kiện lẫn lời bình của sử gia gây nhiều tranh cãi cho hậu thế, đã khiến một thiền sư viết sách nhìn lại, những nhà thơ nảy sinh cảm quan mới, các nhà nghiên cứu tốn nhiều giấy mực và lịch sử bỗng mơ màng thành huyền tích. Có sao đâu, điều ấy lại khoác lên cho vùng đất này những hình tích đa diện và sự thăng giáng của nó khác nào lời thủ thỉ muôn trùng của số phận và cơ duyên. Dulichgo

< Dòng người lên Hang Tổ.

Đến chùa ông Núi không chỉ đến với hang tổ và ngôi chùa, mà là đến cả một vùng nước non linh địa. Ở đó, người ta có thể lót trăng mà ngủ, tựa đá ngồi ngâm thơ, như năm xưa ông Núi đã hòa mình cùng thiên nhiên, liên lạc với chim thú. Nghe Ông Núi chú giải bộ kinh Liên hoa (mộc bản Ông Núi 200 tấm ván gỗ đã thất truyền), tôi tìm đọc kinh này trên văn bản do Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch và đề tựa: “Suốt hơn sáu vạn lời, nghĩa lý sâu xa, kinh văn rộng lớn, chứa đựng tâm nguyện và phương tiện huyền diệu ngời sáng của Phật và Bồ-Tát. Phương tiện của Phật là phương tiện huyền diệu được sanh trưởng và dinh dưỡng bởi trí huệ từ bi hỷ xả lợi tha có khả năng đưa tất cả chúng sanh đồng chứng nhất thừa Phật quả”.

Có lẽ vì vậy mà những người bạn của tôi, kẻ Hà Nội người Sài Gòn, bốn phương tám hướng văn nhân thi sĩ thân ái mà tôi được vinh hạnh đưa họ lên tắm suối chơi trăng ăn cơm rau dưa với chùa, dường như không muốn dừng lại ở lần đi thứ nhất. Đất Phật của Mộc Y Sơn ông cũng có thể ví như một kiệt tác. Mà kiệt tác trên thế gian khi có trong tầm tay, thưởng thức một lần là phí phạm. Về tìm không gian tịnh độ chùa Ông Núi, thảy như nghe sự rốt ráo thanh tịnh, như lời kinh Pháp Hoa còn văng vẳng bên tai.

Với ý nghĩa như vậy, chiếc áo cà sa bằng vỏ cây của Mộc Y Sơn Ông như che chở cho người hành hương về tìm không gian tịnh độ, còn móc ngọc đai vàng là tâm nguyện của các triều đại chấp chới với ước mong cứu rỗi từ cõi linh địa chốn vô thường.

Theo Nguyễn Thanh Mừng (báo Bình Định)
toimedulich

Vẻ đẹp hoang sơ hang Tổ

< Tảng đá hướng dẫn dường lên hang Tổ.

Từ phía trước Chánh điện chùa, đi về hướng tây có một cây cầu nhỏ dẫn lên các mộ Tháp và lên hang Tổ nằm trên núi phía sau chùa. Hang Tổ nằm sát mép suối, đá tự nhiên che kín cả ba mặt như một ngôi nhà.

Tương truyền đây chính là hang đá ngày xưa ông Núi từng ở, từng ngồi niệm kinh tụng Phật. Năm 2000, tượng ông Núi (thiền sư Lê Ban) được tạo dựng, đặt tại hang Tổ. Tượng ngồi cao 84 cm, nhũ vàng, do nghệ nhân Lê Ân thực hiện. Dulichgo

Hang Tổ hiện nay vẫn còn giữ nguyên vẹn vẻ đẹp hoang sơ với những vách đá từ bên trong và cảnh quan xung quanh bên ngoài. Bên trong hang là những vách đá tự nhiên, tạo nhiều khoảng không gian thông nhau như những căn phòng của một ngôi nhà bằng đá.

Nằm giữa hang là những tảng đá lớn xếp chồng nhau và dựng đứng, phía bên dưới là một khe nước từ trong lòng suối chảy ngang qua hang, với độ sâu hơn 5m. Có lẽ  vì vậy mà trước đây chùa có tên là “Dũng tuyền thạch cốc”  chăng ?

< Bên trong hang Tổ.

Bên ngoài hang, những tảng đá lớn xếp chồng nhau như những mái nhà, tạo nên dòng “suối” đá giữa hai vách của dãy núi Bà. Phía ngoài hang Tổ còn có nhiều khối đá xếp chồng nhau cũng rất lạ.

Có những tảng đá xếp chồng ba hoặc chồng hai hòn với nhau. Có tảng rất giống hình một vị sư đang ngồi an nhiên giữa đất trời, mặc thời gian mãi trôi giữa thường hằng.

Thăm 5 ngọn hải đăng cao nhất VN

Các phượt thủ Việt Nam nếu đã chán leo núi thì sao lại không lên đường chinh phục những ngọn hải đăng cao nhất Việt Nam nhỉ? Dưới đây là 5 ngọn hải đăng cao nhất mà bạn có thể khám phá trong năm 2015.

1. Hải đăng Lý Sơn – Quảng Ngãi (45m)

Không chỉ nổi tiếng với danh xưng "Vương quốc tỏi" cùng món đặc sản gỏi tỏi, đảo Lý Sơn còn được biết đến và yêu thích với ngọn hải đăng nằm ở phía Đông đảo Lý Sơn thuộc xã Lý Hải, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi được đưa vào hoạt động năm 1898.

Với chiều cao 45 m, đây là ngọn hải đăng cao nhất Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại và có vị trí quan trọng trong giao thông hàng hải Việt Nam.

Điều tuyệt diệu nhất là khi đứng ở trên đỉnh cao nhất của ngọn hải đăng chúng ta có thể nhìn toàn cảnh hòn đảo với bốn bề là biển cả: những con sóng miệt mài xô bờ đá, những ruộng hành, ruộng tỏi tuyệt đẹp và những con thuyền nhỏ bé xinh xinh. Nhưng có lẽ cảm giác khó quên nhất là cảnh hoàng hôn đỏ rực bao trùm biển khơi.

2. Hải đăng Đá Lát – Khánh Hòa (42m)

Khánh Hòa là tỉnh duy nhất có 2 ngọn hải đăng nằm trong top 7 ngọn hải đăng cao nhất Việt Nam. Và cả 2 ngọn hải đăng này đều nằm trên đảo thuộc xã đảo Trường Sa, huyện Trường Sa.

Hải đăng Đá Lát được đặt trên đảo Đá Lát ở vị trí cực Tây quần đảo. Hải đăng được xây dựng năm 1994 có tác dụng chỉ vị trí đảo, giúp tàu thuyền hoạt động trong vùng biển Trường Sa định hướng và xác định được vị trí của mình. Dulichgo

Hải đăng Đá Lát được xây dựng trên nền san hô cách nơi ở của hải quân hơn 300 m về phía Bắc, có kết cấu bằng sắt thép với những lỗ xiên hoa. Chiều cao tháp đèn là 42 m, tầm hiệu lực ban ngày là 15 hải lí còn ban đêm là 18 hải lí.

3. Hải đăng Kê Gà – Bình Thuận (41m)

Hải đăng Kê Gà (hoặc Khe Gà) ở mũi Kê Gà, thuộc xã Tân Thành, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận. Đây là một ngọn tháp cao thắp đèn dùng cho tàu thuyền giao thông trong khu vực và đã được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam xác nhận là ngọn hải đăng cao nhất và cổ xưa nhất Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế đây vẫn chưa phải là ngọn hải đăng cao nhất.

Bên trong hải đăng có 183 bậc thang xoáy trôn ốc bằng thép dẫn đến đỉnh hải đăng cùng hàng chục bậc tam cấp dẫn lên đến đỉnh đèn. Xung quanh chân hải đăng có hai hàng hoa sứ dọc theo lối đi do người Pháp trồng từ cuối thế kỷ trước đến nay còn nguyên, toả bóng mát quanh năm.

Vật liệu xây cất được đưa từ Pháp sang, kể cả ngọn đèn trên đỉnh và máy phát điện. Hiện nay, hòn đảo Khe Gà và ngọn hải đăng đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn với du khách khi đến thăm tỉnh Bình Thuận. Ngoài ra, hải đăng Khe Gà còn là di tích kiến trúc độc đáo. Dulichgo

4. Hải đăng Song Tử Tây – Khánh Hòa (38m)

Ngọn hải đăng Song Tử Tây, một trong 9 ngọn hải đăng trên quần đảo Trường Sa được xây dựng năm 1993. Ở đảo Song Tử Tây ngọn hải đăng được xây theo hình tháp tròn phía đông đảo, đón những tia nắng đầu tiên buổi sớm. Đứng từ độ cao 38 mét của ngọn hải đăng, chúng ta có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp xanh tươi mà bình dị của hòn đảo.

Suốt 20 năm qua, ngọn hải đăng vẫn đêm đêm cần mẫn đảm bảo an toàn hàng hải cho vùng biển có bán kính rộng khoảng 18 hải lí quanh đảo Song Tử Tây. Nhìn từ xa, Hải đăng Song Tử Tây giống như một cây bút, nổi bật giữa màu xanh của những tán phong ba, bão táp.

5. Hải đăng Ba Lạt – Thái Bình (34m)

Hải đăng Ba Lạt nằm trên cồn Vành thuộc xã Nam Phú, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Được xây dựng năm 1962, đèn ven biển này giúp tàu thuyền hoạt động trong vùng biển Thái Bình - Nam Định định hướng và định vị. Tháp đèn có dạng hình trụ với màu xám sẫm. Ngọn đèn này là một đôi mắt vô cùng quan trọng với tàu thuyền đánh bắt và vận tải trong khu vực.

Đến thăm hải đăng Ba Lạt, bạn không chỉ có cơ hội trải rộng tầm mắt của mình ngắm nhìn toàn cảnh cửa sông Ba Lạt, khám phá hành trình của các con sông ra biển và những kiểu sinh cảnh độc đáo ở cửa sông ven biển mà còn có cơ hội tìm hiểu công việc của các chiến sỹ biên phòng, cách thức hoạt động và tầm quan trọng của những con mắt thức thâu đêm của biển.

Theo Nhân Mã (Gia Đình VN)
toimedulich

Chùa Đông Ngọ - Hải Dương

Chùa thường gọi là chùa Cập Nhất, chùa Động Ngọ, tọa lạc ở thôn Cập Nhất, xã Tiên Tiến, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

< Tam quan chùa.

Sách Mỹ thuật của người Việt (Hà Nội, 1989) cho biết chùa có 2 tấm bia cổ (đã mất) có hai niên đại sớm: Lý Thái Bình (Lý Thánh Tông: 1054 – 1072, niên hiệu Long Thụy Thái Bình) và Đại chính nguyên niên (1530) cùng bát hương năm Hoàng Định 19 (1619).

< Mặt tiền chùa.

Ngôi chùa hiện nay mang dấu ấn kiến trúc cuối thế kỷ XVII. Tấm bia “Kiến khai Cửu phẩm Liên Hoa bi ký” (1692) đã nói đến việc Thiền sư Chân Nguyên thuộc Thiền phái Trúc Lâm đã tổ chức dựng cây Cửu phẩm Liên Hoa vào mùa xuân năm Nhâm Thân (1692) thời vua Lê Hy Tông. Cây Cửu phẩm cao 5,30m, mặt cắt 6 cạnh đều, 9 tầng (mỗi mặt gắn 3 pho tượng Phật, tổng số tượng là 162 pho), được đặt trong tòa Cửu phẩm vuông, 2 tầng 8 mái.

Thượng tọa trụ trì Thích Thanh Đạt đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa vào năm 1993 – 1994, bài trí điện Phật trang nghiêm. Tam quan được tôn tạo năm 1995. Cửa chính của tam quan xây gác chuông hai tầng, bốn mái chồng diêm, trên có treo một đại hồng chung cao 1,5m,  đúc năm 1813.

< Tòa tháp Cửu phẩm Liên hoa.

Chùa có nhiều câu đối như :
Phật tức tâm, tâm tức Phật, duy thiện khả thông
Không thị sắc, sắc thị không, hữu thành lăng cẩm.
Y bát chân truyền vi cổ giám
Bật xô nhu nhuyễn hữu thanh lương.
(trích sách Hải Dương- Di tích và danh thắng, 1999)

Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.

Theo Vườn Hoa Phật Giáo
toimedulich

Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

Chinh phục nóc nhà Pu Si Lung

Pu Si Lung (3.076m) là khối núi nằm ở tây bắc tỉnh Lai Châu, giữa Sông Đà và thượng nguồn sông Nậm Na (phụ lưu tả ngạn Sông Đà) tại biên giới Việt - Trung. Cụm núi cách Mường Tè khoảng 28 km về phía tây bắc, có diện tích khoảng 2.400 km2 với đỉnh cao 3.076 m (đứng thứ ba của Việt Nam về độ cao, sau Phansipan và Phu Ta Leng).

< Pu Si Lung chụp lại ở cao độ khoảng chừng 2600m. Để chinh phục Pu Si Lung phải lên bằng một sườn khác chứ không phải có đường nối từ mốc 42 như trên google map (ảnh Quycoctu).

Theo nghiên cứu của nhiều bạn, thực chất thì đỉnh Pu Si Lung thực sự mới là đỉnh núi cao nhất Việt Nam với độ cao 3.775m chứ không phải 3.143m của ngọn Phan Xi Păng. Tiếc rằng toàn bộ khu vực có đỉnh núi cao 3.775m này hiện đang nằm bên phần đất mà Trung Quốc gọi là của họ sau chiến tranh 1979. Phần sát Sông Đà thuộc huyện Mường Tè - Lai Châu chỉ còn lại đỉnh cao thứ nhì là 3.076m (forum Phượt).

(VNE) - Là ngọn núi hoang sơ, bí ẩn và quyến rũ bậc nhất Việt Nam, đỉnh Pu Si Lung huyền thoại thuộc địa phận tỉnh Lai Châu luôn là điểm đến trong mơ của các phượt thủ ưa khám phá.

Vùng Tây Bắc là nơi có hàng vạn núi cao sừng sững bao đời như bức tường thành che chở cho nước Việt Nam. Trên biên giới Việt - Trung, đỉnh Pu Si Lung nằm ở độ cao hơn 3.000 m là ngọn núi cao nhất án ngữ nơi biên cương Tổ quốc. Đoàn chúng tôi thực hiện hành trình chinh phục điểm cao nhiều ý nghĩa này giữa những ngày miền Bắc đang chìm trong giá lạnh...

Lên lịch trình kỹ càng và liên hệ trước với các cơ quan chức năng, chúng tôi mang giấy công tác tới trình báo tại Bộ chỉ huy bộ đội biên phòng tỉnh Lai Châu, rồi lại cầm giấy giới thiệu vượt đường đèo núi tới đồn biên phòng Pa Vệ Sủ, vùng sâu nhất của huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu.

Hành trình đường trường gian nan là vậy nhưng chúng tôi được khích lệ tinh thần rất nhiều khi nhận sự tiếp đón và giúp đỡ từ đồn biên phòng cùng người dân nơi đây. Chúng tôi tới bản Sín Chải A, gặp gỡ trưởng bản và dự bữa cơm Tết thân mật của người La Hủ. Dulichgo

Rời bản Sín Chải A, chúng tôi vào bìa rừng và để xe lại đây, bắt đầu hành trình leo núi gian nan. Mùa này, những cây lau rậm rạp nở bông trắng muốt, trập trùng trong nắng gió khiến đoàn lữ khách ngẩn ngơ.

Hành trình dọc theo những con suối lớn với nhiều ghềnh đá dữ cùng các cây cầu đơn sơ làm từ thân cây bị gãy từ mùa lũ khiến chúng tôi phải tháo giầy để lội qua. Những ghềnh đá lô nhô, trơn trượt, giá lạnh làm bàn chân ai cũng tê cóng và phải rất cẩn thận nếu không muốn bị ướt.

Đêm giữa thung lũng, bốn bề là núi rừng hoang dã, bên bếp lửa bập bùng, tiếng suối róc rách còn ánh sáng bàng bạc của trăng sao trên đỉnh đầu.

Khung cảnh núi rừng tuyệt đẹp, không khí trong lành với những đám mây sương lảng bảng thật kỳ ảo. Đôi khi, chúng tôi ngỡ mình lạc bước lúc vào những khu đồi hoa dại trắng muốt từ thân tới bông. Bước chân lại dẫm lên những thảm lá khô hay bông hoa nhỏ xinh và ngước mắt lên là một bầu trời đỏ rực màu hoa hồng quang.

Đường thật dài, hết lên lại xuống nhưng leo mãi rồi cũng tới đích. Chúng tôi reo lên sung sướng khi thấy cột mốc đứng đó, sừng sững trên nền bê tông được gia cố chắc chắn. Các anh biên phòng kiểm tra tình trạng mốc giới, thực hiện nghi lễ thiêng là chào mốc giới và cùng chúng tôi chụp hình lưu niệm. Máy GPS của tôi xác nhận cao độ 2.866 m. Đây là một trong những cột mốc biên giới cao nhất trên lãnh thổ Việt Nam.

Trời chuyển tối, không khí lạnh cùng sương mù nhiều khiến chúng tôi biết mình phải nhanh chóng khởi hành về lán nghỉ cho dù phải đi trong bóng đêm. Đoàn chúng tôi bao gồm những đôi chân có kinh nghiệm, tôi luyện qua không ít những ngọn núi cao nhưng quả thực hành trình lần này là một thử thách gian nan, đáng nhớ và nhiều ý nghĩa. Dulichgo

Từ đây lên đỉnh Pu Si Lung còn cả một hành trình dài. Đi trên hành lang biên giới nên phải rất cẩn thận bám nhau theo các anh biên phòng để không lạc sang nước bạn Trung Quốc. Qua rừng trúc rồi tới khu rừng nguyên sinh với thảm thực vật đa dạng, ẩm ướt tới nỗi mỗi thân cây đều phủ trên mình một màu xanh ma mị của rêu phong.

Cả đoàn lấy cờ Tổ quốc và chụp hình lưu niệm với niềm tự hào dâng trào khi chinh phục thành công ngọn núi được mệnh danh là nóc nhà biên giới này. Không tự hào sao được khi trên những đỉnh cao như vậy, cha ông ta đã từng ngàn năm chiến đấu bảo vệ mảnh đất quê hương.

Theo Hachi8 (Vnexpress)
toimedulich

Tép bạc miền Tây Nam Bộ

Ca dao có câu 'Buổi chợ đương đông con cá lòng tong còn chê lạt/ Buổi chợ tan rồi con tép bạc khen ngon'; đây chỉ là cách chơi chữ theo cách hiểu ngược nghĩa của người bình dân: mượn từ bạc để liên tưởng đến sự bạc bẽo của thói đời là nghĩa hàm ẩn mà câu ca dao muốn gửi đến người nghe, chứ thực ra tép bạc hẳn ngon hơn cá lòng tong nhiều lắm!

Ở miền Tây Nam bộ, người ta bắt tép bạc bằng cách đặt nò, cất vó hay đặt đuôi chuột (dụng cụ bắt cá làm bằng lưới dày, thân kéo dài nhỏ dần về sau, nên được gọi vậy). Tép bạc con cỡ ngón tay cái, sống ở vùng nước mặn, nước lợ.

Đặc tính của tép bạc là thường bơi ngược dòng nước, chỗ nào nước chảy xiết, có ánh sáng là có nhiều tép bạc. Lợi dụng đặc tính đó, nò được ven đăng chỗ dòng nước chảy; đêm đến, đèn nò sáng rực cả khúc sông, con rạch… Dulichgo

Có nhiều cách để chế biến các món ăn ngon từ con tép bạc còn nhảy xoi xói. Để giữ được độ ngọt nguyên chất của loại thủy sản này, cách giản dị nhất là luộc tép với nước dừa tươi cuốn bánh tráng cùng bún, các loại rau vườn như lá sộp, đọt lụa, lá cách, đọt chùm ruột, khế chua, chuối chát xắt lát… chấm với nước mắm chanh, ớt.

Vị ngọt của tép quyện với các mùi đặc trưng của rau tạo nên món ăn bổ dưỡng, lại ngọt lịm tình đất, tình người. Dulichgo

Đơn giản hơn nữa, chỉ cần lột vỏ tép, vắt chanh hoặc rưới chút giấm, rắc ngò gai, ớt… lên trên là có món tép bạc tái chanh, chấm muối ớt ăn vừa ngọt.

Cầu kỳ hơn, người ta chuốt cọng lá dừa rồi xỏ xâu tép để nướng trên bếp than hồng, nhanh tay trở qua lại cho tép vàng đều. Tép nướng chấm muối tiêu chanh hoặc muối ớt, nhâm nhi chung rượu đế, ngâm nga vài ba câu vọng cổ mà hồn quê chan chứa, nghĩa xóm tình làng thêm gắn thâm sâu.

Có thể bằm nhuyễn tép nấu canh rau tập tàng, canh năng hoặc cắt bỏ râu và đuôi tép đem rang.Khi chín, rắc ít muối và thêm nước dừa tươi rồi để lửa riu riu cho đến khi tép thấm, nước sền sệt thì nhắc xuống. Tép rang ăn với cơm nóng và canh rau tập tàng ôi thôi ngon hết biết!

Theo Thạch Ba Xuyên (Doanh Nhân SG Cuối Tuần)
toimedulich

Bến Bình Đông - TPHCM

Bến Bình Đông là một không gian di sản với các dãy nhà mang đậm nét kiến trúc đặc thù của cộng đồng người Hoa tại Việt Nam. Nơi đây còn mang dấu ấn của hoạt động kinh tế “trên bến dưới thuyền” một thời cũng như sự giao thoa của văn hóa Đông - Tây rất thu hút du khách khi đến Tp. Hồ Chí Minh.

< Bến Bình Đông là một không gian di sản nằm bên kênh Tàu Hũ và đại lộ Võ Văn Kiệt.

Ngược thời gian, bến Bình Đông xưa là một phần quan trọng của Chợ Lớn, được hình thành ngay khi người Hoa từ Cù lao Phố (thuộc Tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) tới đây vào năm 1778. Sau đó, cộng đồng người Hoa đã gây dựng bến Bình Đông dọc theo hai bờ kênh Tàu Hũ trở thành một trung tâm quan trọng của vựa lúa miền Nam với sự kết hợp liên hoàn giữa hệ thống các điểm xay lúa, kho gạo và bến bãi.

< Dãy nhà kho chứa gạo của bến Bình Đông bên kênh Tàu Hũ.

Bến Bình Đông chính là nơi chứng kiến một giai đoạn thịnh vượng của việc mua bán và xuất khẩu lúa gạo trong suốt lịch sử hơn 300 năm phát triển Sài Gòn - Chợ Lớn. Dulichgo

< Bến Bình Đông thơ mộng về đêm.

Theo nhà văn Sơn Nam (1926-2008), người nổi tiếng với các tác phẩm viết về vùng đất phương Nam thì bến Bình Đông nằm từ đoạn cầu Chà Và xuống đến gần đình Bình An, ngày nay thuộc Quận 8 Tp. Hồ Chí Minh.

< Dãy nhà mang đậm nét kiến trúc đặc thù của cộng đồng người Hoa trên bến Bình Đông.

< Cầu đi bộ ngang qua kênh Tàu Hũ phục vụ du khách và người dân đi dạo và ngắm cảnh bến Bình Đông.

Xung quanh bến là kiến trúc phố với bề ngang hẹp để nhằm tăng số lượng nhà mặt tiền. Người dân ở phố bến Bình Đông từ xưa đến nay đều dùng tầng trệt là cơ sở kinh doanh, tầng trên là nhà ở. Dulichgo

< Vẫn còn đó hình ảnh đặc trưng trên bến dưới thuyền ở bến Bình Đông.

Kiến trúc khu phố bến Bình Đông là một tổng thể kết hợp đường nét Đông - Tây bởi phần trang trí mang ảnh hưởng phương Tây với các cây cột được xây bằng gạch, lan can bằng sắt, gờ chỉ làm bằng thạch cao hoặc vôi.

< Những hàng hoa, cây kiểng trên bến Bình Đông.

Trước đây, kênh Tàu Hủ gắn với bến Bình Đông còn được mệnh danh là “con đường lúa gạo” bởi các nhà máy xay xát lúa gạo hoạt động sầm uất, thuyền bè từ các tỉnh ra vào tấp nập buôn bán.

< Khu vực buôn bán sầm uất ven bến Bình Đông.

Hiện tại, không gian của bến Bình Đông vẫn đang được giữ gìn với hình ảnh truyền thống song song với không gian đô thị hiện đại. Bến Bình Đông vẫn còn đó các ghe lớn neo đậu tập kết hàng để vận chuyển đến khắp các tỉnh miền Tây. Dulichgo

< Ghe xuồng qua lại trên bến Bình Đông.

Đặc biệt, đêm đến khi lên đèn, bến Bình Đông với tổng thể kiến trúc cổ của dãy mặt tiền nhà và dãy nhà kho nối dài trở nên lung linh kỳ ảo, yên bình soi bóng xuống dòng kênh Tàu Hũ đã được cải tạo sạch đẹp.

< Bến Bình Đông hiện là không gian di sản đang được chính quyền và người  dân Tp. Hồ Chí Minh gìn giữ.

< Chùa cổ của người Hoa ở bến Bình Đông.

Người dân thành phố và nhất là du khách quốc tế thường ra đây đi dạo, hóng mát và chụp ảnh kỷ niệm. Bến Bình Đông cũng là chợ hoa Tết nổi tiếng với hàng trăm loại hoa đua nhau khoe sắc trong khung cảnh đặc trưng “trên bến dưới thuyền”, làm nên một nét văn hóa đặc sắc, duyên dáng trong những ngày giáp Tết ở Tp. Hồ Chí Minh./.

Theo Nguyễn Vũ Thành Đạt, Lê Minh (Báo Ảnh VN)
toimedulich