(BCM) - Trong chuyến hành trình khám phá vịnh Nha Trang, du khách đừng quên chinh phục và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Hải đăng Hòn Lớn - một trong những ngọn hải đăng cổ nhất ở nước ta.
Hải đăng Hòn Lớn nằm trên đảo Bích Ðầm thuộc phường Vĩnh Nguyên, TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà. Xuất phát từ bến cảng Cầu Ðá, TP Nha Trang, sau hơn 2 giờ lênh đênh trên biển, du khách sẽ đặt chân đến đảo Bích Ðầm – một hòn đảo vươn xa về phía Ðông. Từ trung tâm đảo, men theo con đường bê-tông, di chuyển khoảng hơn 2 giờ đồng hồ nữa du khách sẽ đặt chân đến Trạm đèn Hòn Lớn – nơi có ngọn hải đăng đã tồn tại hơn 120 năm qua.
< Hải đăng Hòn Lớn – một trong những ngọn hải đăng cổ nhất nước ta.
Hải đăng Hòn Lớn đặt trên toà nhà mang kiểu dáng kiến trúc Pháp. Toà nhà được xây dựng kiên cố và chủ yếu vật liệu được làm bằng đá khối. Theo anh Nguyễn Anh Tuấn, nhân viên Trạm đèn Hòn Lớn, đảo Bích Ðầm chịu ảnh hưởng khí hậu khu vực Nam Trung Bộ nên dường như nắng nóng quanh năm. Với kiểu thiết kế xây dựng thành toà nhà, dù mùa mưa hay vào thời điểm nắng nóng thì toà nhà vẫn mát mẻ. Ngoài ra, phía dưới toà nhà có bể có thể chứa khoảng hơn 200 m3 nước, cơ bản đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân viên tại trạm. Phía trên là sân rộng được đúc bằng bê-tông, lát gạch đá nung, là nơi che mát cho cả toà nhà”.
Hải đăng Hòn Lớn được xây dựng từ khoảng năm 1890 và được xem là 1 trong 5 ngọn hải đăng cổ nhất nước ta. Hải đăng có độ cao 102 m được sơn 2 màu chính là trắng và đen, đèn của ngọn hải đăng có thể vươn xa đến 26 hải lý. Nhiệm vụ chính của Hải đăng Hòn Lớn là đảm bảo an toàn hàng hải, giúp tàu thuyền hoạt động tại khu vực vùng biển vịnh Nha Trang và một số vùng lân cận.
Từ phía trên tháp đèn, phóng tầm mắt ra xa, du khách có thể nhìn thấy gần như toàn cảnh của vịnh Nha Trang – một trong những vịnh biển đẹp nhất của Việt Nam và thế giới.
Hướng về phía Nam của hải đăng là Hòn Nội, Hòn Ngoại, phía trước mặt là Hòn Mun, Hòn Nọc, còn phía sau lưng là Hòn Tre nằm ẩn hiện giữa vịnh Nha Trang quanh năm nước biển xanh trong. Ngồi trên đỉnh hải đăng, tận hưởng những làn gió biển mát rượi với xung quanh là biển cả mênh mông, xa xa là hình ảnh những thuyền ghe ngược xuôi, tất cả tạo một bức tranh thật sống động nhưng cũng gần gũi bình yên đến lạ thường. Dulichgo
< Trẻ em đang vui chơi dưới chân Trạm đèn Hòn Lớn.
Hải đăng được xem là những “mắt biển” vì có ý nghĩa quan trọng trong việc rọi ánh sáng, giúp hoạt động tàu thuyền lưu thông an toàn.
Theo thống kê, cả nước hiện có hơn 90 ngọn hải đăng dọc theo đất nước từ Bắc đến Nam. Ngoài số ít nằm ở những cảng biển sầm uất hay những thành phố lớn, đa số các ngọn hải đăng đều nằm ở những vị trí heo hút, xa xôi như các vùng ven biển hay những đảo tiền tiêu. Chính vì nét hoang sơ của những vùng đất xa xôi và vẻ đẹp giản dị nhưng đầy kiêu hãnh của những ngọn hải đăng mà thời gian gần đây, những “mắt biển” đang là địa điểm được nhiều bạn trẻ tìm đến khám phá, chinh phục.
Theo Quốc Văn (báo Cà Mau)
toimedulich
Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014
Lạ lẫm suối Đôi - Đa Mi
(BTO) - Từ trung tâm thành phố Phan Thiết tới Đa Mi (Hàm Thuận Bắc), men theo con đường đèo dốc quốc lộ 55 thuộc xã Đa Mi, huyện Hàm Thuận Bắc khoảng 60km, nhìn bên phía tay trái đường quốc lộ là hồ Đa Mi rồi tới hồ Hàm Thuận.
Khi tôi được dạo quanh lòng hồ Hàm Thuận bằng thuyền, người lái đò giới thiệu về dòng suối: “Được bắt nguồn từ thác sương mù chảy xuống, có tên là suối Đôi vì ở đây có hai dòng suối chảy xéo qua nhau, cùng đổ ra hồ Hàm Thuận. Người dân quanh đây cũng ít biết, do suối nằm sâu trong rừng, phải đi hết đường bộ, chuyển sang đi khoảng 40 phút đường thủy.’’
Thuyền chúng tôi cập bờ trái của hồ Hàm Thuận, lần theo đến suối Đôi. Nước ở đây rất trong và mát. Không cao như thác Chín tầng, không sâu thẳm như hồ thủy điện Đa Mi, con suối nhỏ song đôi yên ả, lại cạn nên có thể vừa lội nước vừa ngắm phong cảnh hữu tình với đồi núi chập chùng hai bên bờ. Dulichgo
Phóng tầm mắt ra xa có thể nhìn thấy thượng nguồn của dòng suối Đôi với thác sương mù tung bọt trắng xóa, những vệt đá đen là tàn tích còn sót lại của những người đi rừng ghé qua, đốt lửa trại hoặc nướng cá, thưởng thức thành phẩm mà mình đã kiên trì có được từ việc giăng câu.
Đến suối Đôi vào buổi sớm, làn sương từ mặt nước nhẹ tan trong không trung, mặt nước sóng sánh dưới nắng vàng ấm áp. Khi chiều về, hoàng hôn đỏ tía lại bao trùm cả không gian, rồi rải đều từ những ngọn cây xanh thẫm xuống mặt nước tĩnh lặng, khiến quang cảnh ở đây như một bức tranh tuyệt mỹ đầy chất thơ.
Theo Trịnh Thương (Báo Bình Thuận)
toimedulich
Khi tôi được dạo quanh lòng hồ Hàm Thuận bằng thuyền, người lái đò giới thiệu về dòng suối: “Được bắt nguồn từ thác sương mù chảy xuống, có tên là suối Đôi vì ở đây có hai dòng suối chảy xéo qua nhau, cùng đổ ra hồ Hàm Thuận. Người dân quanh đây cũng ít biết, do suối nằm sâu trong rừng, phải đi hết đường bộ, chuyển sang đi khoảng 40 phút đường thủy.’’
Thuyền chúng tôi cập bờ trái của hồ Hàm Thuận, lần theo đến suối Đôi. Nước ở đây rất trong và mát. Không cao như thác Chín tầng, không sâu thẳm như hồ thủy điện Đa Mi, con suối nhỏ song đôi yên ả, lại cạn nên có thể vừa lội nước vừa ngắm phong cảnh hữu tình với đồi núi chập chùng hai bên bờ. Dulichgo
Phóng tầm mắt ra xa có thể nhìn thấy thượng nguồn của dòng suối Đôi với thác sương mù tung bọt trắng xóa, những vệt đá đen là tàn tích còn sót lại của những người đi rừng ghé qua, đốt lửa trại hoặc nướng cá, thưởng thức thành phẩm mà mình đã kiên trì có được từ việc giăng câu.
Đến suối Đôi vào buổi sớm, làn sương từ mặt nước nhẹ tan trong không trung, mặt nước sóng sánh dưới nắng vàng ấm áp. Khi chiều về, hoàng hôn đỏ tía lại bao trùm cả không gian, rồi rải đều từ những ngọn cây xanh thẫm xuống mặt nước tĩnh lặng, khiến quang cảnh ở đây như một bức tranh tuyệt mỹ đầy chất thơ.
Theo Trịnh Thương (Báo Bình Thuận)
toimedulich
Tổ đình Linh Sơn Thiền tự ở Bình Định
(DVO) - Tổ đình Linh Sơn Thiền tự là một trong những chùa cổ ở Bình Định. Hiện còn hai câu đối do Chúa Nguyễn Phúc Khoát, Quốc chủ Từ Tế Đạo Nhân Ngự Đề: Hoàng cực vô cương/Nam thiên giữa tây thiên/Tứ thời trường lạc/Long đồ hữu vĩnh/Vương quốc đồng phật quốc/Vạn cổ giai xuân. Trải qua thời gian và ảnh hưởng bởi chiến tranh mà hai biển ngự đề trên đã hư hại, trụ trì Thích Đồng Tuệ hiện đã cho phục chế.
Ngoài hai liễn đối trên thì chùa còn giữ đại hồng chung đúc năm 1804 mang nhiều vết đạn do hồi chiến tranh. Theo Lộc Xuyên Đặng Qúi Địch dịch nghĩa trên Văn chuông chùa Linh Sơn viết: “Nước Đại Viết, trấn Quảng Nam, phủ Qui Nhơn, huyên Phù Ly, xã Nha Đăng, phường Đại An, ấp Đại Ân… Vận trời năm Giáp tí (1804) tháng 5 ngày tốt đúc chuông này bằng đồng nặng hai đấu năm thưng".
< Tổ đình Linh Sơn.
Và trù trì chùa Linh Sơn Thiền tự lúc này là Sa môn Pháp danh Tổ Chúc, Pháp tự Thiển Chẩn cùng các bậc tăng chúng trong chùa và nhân dân trong vùng dâng cúng.
< Tượng Phật trong điện thờ.
Cũng theo Văn chuông thì, trước đây có sư già làm thủ tọa chùa này là Sa môn Pháp danh Tế Triết, Pháp tự Từ Cách, đã bền bỉ giữ giới hạnh, vui cùng mùi đạo, bèn bắt đầu thiết lập chùa này, xây cất chánh điện nhà Đông nhà Tây các tòa, lưu lại dấu xưa… truyền đã mấy đời, người sau nhờ đó mà phát triển, nên đúc chuông lớn để ghi lại việc xưa.
< Đại hồng chung đúc năm 1804 với nhiều vết đạn.
Nay Tổ đình Linh Sơn thuộc thôn Đại Ân, xã Cát Nhơn, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Buổi sáng ghé thăm chùa, sương núi vẫn còn màn bạc khắp không gian chùa, chú tiểu quét lá thu rơi sân chùa.
< Tháp của các vị trụ trì…
Vào thắp hương lạy Phật, nhớ lại lợi mong ước năm xưa của tiền nhân, những người nông dân đến khai sơn, cày cấy đất này trên Văn chuông: “Gió hòa mưa thuận, nước ổn dân yên. Bốn phía biên giới không xảy ra việc gì. Người kém văn minh ở tám cõi hoang vu xa kinh đô biết sống theo đạo lý. Trộm cướp tự mình bỏ nghề mà quay về làm ăn hướng thiện, cũng chứng quả Bồ Đề”. Dulichgo
Theo đường mòn tôi leo lên núi, nơi có những ngôi tháp cổ của các vị trụ trì đời trước. Khi những tia nắng ban sớm chiếu rọi trên những cây cổ thụ trong chùa, sau một đêm mưa, khung cảnh thật lung linh, chợt nhớ một bài thơ của thiền sư Thích Nhất Hạnh:
Nắng là lá cây xanh/ Lá cây xanh là Nắng
Nắng chẳng khác lá xanh/ Lá xanh chẳng khác nắng
Bao nhiêu màu sắc kia/ Cũng đều như vậy cả.
Theo Hoàng Tuấn (báo Dân Việt)
toimedulich
Ngoài hai liễn đối trên thì chùa còn giữ đại hồng chung đúc năm 1804 mang nhiều vết đạn do hồi chiến tranh. Theo Lộc Xuyên Đặng Qúi Địch dịch nghĩa trên Văn chuông chùa Linh Sơn viết: “Nước Đại Viết, trấn Quảng Nam, phủ Qui Nhơn, huyên Phù Ly, xã Nha Đăng, phường Đại An, ấp Đại Ân… Vận trời năm Giáp tí (1804) tháng 5 ngày tốt đúc chuông này bằng đồng nặng hai đấu năm thưng".
< Tổ đình Linh Sơn.
Và trù trì chùa Linh Sơn Thiền tự lúc này là Sa môn Pháp danh Tổ Chúc, Pháp tự Thiển Chẩn cùng các bậc tăng chúng trong chùa và nhân dân trong vùng dâng cúng.
< Tượng Phật trong điện thờ.
Cũng theo Văn chuông thì, trước đây có sư già làm thủ tọa chùa này là Sa môn Pháp danh Tế Triết, Pháp tự Từ Cách, đã bền bỉ giữ giới hạnh, vui cùng mùi đạo, bèn bắt đầu thiết lập chùa này, xây cất chánh điện nhà Đông nhà Tây các tòa, lưu lại dấu xưa… truyền đã mấy đời, người sau nhờ đó mà phát triển, nên đúc chuông lớn để ghi lại việc xưa.
< Đại hồng chung đúc năm 1804 với nhiều vết đạn.
Nay Tổ đình Linh Sơn thuộc thôn Đại Ân, xã Cát Nhơn, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Buổi sáng ghé thăm chùa, sương núi vẫn còn màn bạc khắp không gian chùa, chú tiểu quét lá thu rơi sân chùa.
< Tháp của các vị trụ trì…
Vào thắp hương lạy Phật, nhớ lại lợi mong ước năm xưa của tiền nhân, những người nông dân đến khai sơn, cày cấy đất này trên Văn chuông: “Gió hòa mưa thuận, nước ổn dân yên. Bốn phía biên giới không xảy ra việc gì. Người kém văn minh ở tám cõi hoang vu xa kinh đô biết sống theo đạo lý. Trộm cướp tự mình bỏ nghề mà quay về làm ăn hướng thiện, cũng chứng quả Bồ Đề”. Dulichgo
Theo đường mòn tôi leo lên núi, nơi có những ngôi tháp cổ của các vị trụ trì đời trước. Khi những tia nắng ban sớm chiếu rọi trên những cây cổ thụ trong chùa, sau một đêm mưa, khung cảnh thật lung linh, chợt nhớ một bài thơ của thiền sư Thích Nhất Hạnh:
Nắng là lá cây xanh/ Lá cây xanh là Nắng
Nắng chẳng khác lá xanh/ Lá xanh chẳng khác nắng
Bao nhiêu màu sắc kia/ Cũng đều như vậy cả.
Theo Hoàng Tuấn (báo Dân Việt)
toimedulich
Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2014
Làng rượu bên sông Côn…
(BBĐ) - Nghe tiếng Vĩnh Thạnh có loại rượu rất ngon. Lại nghe một đồng nghiệp kể về thứ rượu hảo hạng được nấu từ nước nguồn sông Côn. Mãi đến gần đây, tôi mới có dịp đến Vĩnh Giang, được nếm hương vị rượu, được nghe người dân nơi đây nói về một đặc sản còn ít người biết đến…
< Sông Côn, đoạn chảy qua cầu Định Bình, nơi ngày xưa người dân Vĩnh Giang hay ra lấy nước để nấu rượu.
1. Vĩnh Giang là một ngôi làng nhỏ nằm cạnh sông Côn, thuộc địa phận thôn An Ngoại, xã Vĩnh Thịnh. Trên đường lên trung tâm huyện Vĩnh Thạnh, chỉ cần rẽ phải qua phía bên kia của cầu Định Bình là ta đã đặt chân lên đất Vĩnh Giang. Người dân ở đây cho hay, cứ 10 hộ trong làng thì có đến 7 hộ nấu rượu để bán hàng ngày. Những người lớn tuổi trong làng cũng không thể biết nghề nấu rượu ở Vĩnh Giang có từ bao giờ.
Nhưng, có một điều mà họ chắc chắn, đó là từ xưa, khi người dân chưa có điều kiện để đào giếng lấy nước, thì người Vĩnh Giang hay đào những cái hố giữa bãi cát ven bờ sông Côn để lấy nước lọc uống và nấu rượu. Anh Trương Văn Tây, 34 tuổi, kể: “Hồi còn nhỏ, tôi hay ra bờ sông quẩy nước về cho mẹ nấu rượu. Bờ sông cách nhà có mấy chục mét mà phải nghỉ mấy lượt mới quẩy được thùng nước về nhà”.
Ngày nay, những cái hố của dân làm rượu đã không còn. Nhưng những giếng nước của dân Vĩnh Giang vẫn nằm gần dòng sông. Có lẽ, chính nguồn nước của dòng Côn đã góp phần làm nên hương vị độc đáo của rượu Vĩnh Giang…
2. Năm nay, bà Võ Thị Phương đã ở tuổi 70. Bà kể, bà bắt đầu nấu rượu từ năm 17 tuổi, mấy năm gần đây, tay chân chậm chạp, nên lâu lâu có giỗ quải bà mới nấu rượu để dùng trong gia đình. Bà mang ra một canh rượu mới nấu cách đây mấy ngày để dùng trong ngày giỗ chồng, rót cho tôi một ly nhỏ để nếm thử. Ngay từ lúc đang rót, đã có mùi thơm thoang thoảng bay ra. Không cay nồng như đặc sản Bầu Đá, rượu Vĩnh Giang dìu dịu nhưng khá mạnh, phổ biến từ 50-55 độ, có thể đến 70 độ. Cầm chai lắc lắc, rượu sủi tăm rất lâu.
< Bà Phương với các dụng cụ để nấu rượu.
Bà Phương cho biết, cách nấu rượu của người Vĩnh Giang chủ yếu mang tính gia truyền. Với cách làm của gia đình bà, công đoạn đầu tiên là nấu cơm, rồi giở ra cho cơm nguội bớt. Sau đó bóp nát, để cho cơm thật nguội, trộn với men. Ủ hỗn hợp cơm - men này trong thùng 3 đêm, sau đó đổ nước vào thùng, ủ thêm 3 đêm nữa mới bắt đầu nấu.
Có một chi tiết khá thú vị là mỗi hộ nấu rượu ở làng Vĩnh Giang chỉ đắp 1 cái lò duy nhất. Những cái lò ấy gần như đồng nhất về kích cỡ, cấu tạo cũng như vật liệu. Vì chỉ có 1 cái lò, nên nhà nào nấu nhiều thì phải đốt lò liên tục. Dulichgo
< Mỗi hộ nấu rượu ở Vĩnh Giang chỉ có 1 lò nấu rượu như thế này.
Về các nguyên liệu để nấu rượu, ngoài nước nguồn cạnh sông Côn, người dân Vĩnh Giang chủ yếu dùng lúa gạo của người dân trong làng hoặc mua của những làng xung quanh. Trước kia, người dân Vĩnh Giang chỉ dùng men cục để ủ cơm, giờ thì không ít người trẻ đã bắt đầu dùng men bột. Bà Phương cho biết: “Men bột do Trung Quốc làm, dùng ủ rượu làm rượu có mùi hăng. Men cục do dân mình làm, nấu rượu thì thơm hơn. Trước đây, tôi thường mua men của bà Điềm, chuyên làm men cục ở Định Thạnh, xã Vĩnh Hảo”. Nói đoạn, bà lấy cho tôi xem những cục men màu trắng đục còn dính vài vỏ trấu để trên đầu tủ.
Ở Vĩnh Giang bây giờ, nấu rượu nhiều nhất phải kể đến gia đình anh Lê Văn Điệp, mỗi ngày bán ra khoảng 15 lít rượu; kế đó là nhà bà Võ Thị Hiếu với hơn 10 lít/ngày. Làng rượu Vĩnh Giang thật sự tất bật vào thời điểm đầu tháng 11 âm lịch, khi những lò nấu rượu đỏ lửa suốt ngày đêm để phục vụ nhu cầu rượu ngày Tết. Có người đặt đến gần 40 lít rượu Vĩnh Giang để biếu bà con, họ hàng ở xa…
Tùy theo chất lượng, uy tín của từng gia đình, rượu Vĩnh Giang có giá từ 18.000-20.000 đồng mỗi lít nếu bán sỉ, còn bán lẻ thì mỗi lít hơn 25.000 đồng. Không sản xuất quy mô lớn, nhưng công việc nấu rượu độ nhật vẫn mang lại nguồn sống ổn định cho người dân Vĩnh Giang; nhất là những hộ kết hợp tốt giữa nấu rượu và nuôi heo…
3. Người Vĩnh Thạnh có câu “Bánh Vĩnh Cửu, rượu Vĩnh Giang”. Bánh Vĩnh Cửu là bánh tráng Vĩnh Cửu, cũng là một đặc sản của xứ Vĩnh Thạnh. Cái đặc biệt của bánh tráng mỏng Vĩnh Cửu là vừa đảm bảo được độ dẻo của bánh, nhưng khi nhúng nước lại không dính nên được người tiêu dùng ưa chuộng. Nghề tráng bánh tráng đã giúp không ít hộ ở Vĩnh Cửu có được cuộc sống thoải mái hơn so với nhiều vùng nông thôn khác trong huyện, lại không phải đi làm thuê làm mướn nơi xa mỗi lúc nông nhàn.
So với bánh tráng Vĩnh Cửu, rượu Vĩnh Giang vẫn chưa được phổ biến rộng rãi, mặc dù đã được tiêu thụ ở nhiều vùng lân cận, lên đến tận An Khê (Gia Lai). Khái niệm thương hiệu vẫn còn quá xa lạ với những người nông dân Vĩnh Giang. Họ vẫn bán rượu trong những chiếc canh đã cũ, còn nhãn mác thì chưa bao giờ nghĩ đến…
Một điều đáng suy nghĩ là, giờ đây, bí quyết nấu rượu của mỗi gia đình giờ đã lan rộng, số người nấu rượu ngày càng nhiều hơn. Chiếm đa phần trong số đó là những người trẻ mà nhiều người trong số đó chạy theo số lượng, hạ giá bán, không chú ý đúng mức đến chất lượng rượu. Nên, hương vị rượu Vĩnh Giang đang có nguy cơ mai một theo thời gian…
Theo Nguyễn Văn Trang (Báo Bình Định)
toimedulich
< Sông Côn, đoạn chảy qua cầu Định Bình, nơi ngày xưa người dân Vĩnh Giang hay ra lấy nước để nấu rượu.
1. Vĩnh Giang là một ngôi làng nhỏ nằm cạnh sông Côn, thuộc địa phận thôn An Ngoại, xã Vĩnh Thịnh. Trên đường lên trung tâm huyện Vĩnh Thạnh, chỉ cần rẽ phải qua phía bên kia của cầu Định Bình là ta đã đặt chân lên đất Vĩnh Giang. Người dân ở đây cho hay, cứ 10 hộ trong làng thì có đến 7 hộ nấu rượu để bán hàng ngày. Những người lớn tuổi trong làng cũng không thể biết nghề nấu rượu ở Vĩnh Giang có từ bao giờ.
Nhưng, có một điều mà họ chắc chắn, đó là từ xưa, khi người dân chưa có điều kiện để đào giếng lấy nước, thì người Vĩnh Giang hay đào những cái hố giữa bãi cát ven bờ sông Côn để lấy nước lọc uống và nấu rượu. Anh Trương Văn Tây, 34 tuổi, kể: “Hồi còn nhỏ, tôi hay ra bờ sông quẩy nước về cho mẹ nấu rượu. Bờ sông cách nhà có mấy chục mét mà phải nghỉ mấy lượt mới quẩy được thùng nước về nhà”.
Ngày nay, những cái hố của dân làm rượu đã không còn. Nhưng những giếng nước của dân Vĩnh Giang vẫn nằm gần dòng sông. Có lẽ, chính nguồn nước của dòng Côn đã góp phần làm nên hương vị độc đáo của rượu Vĩnh Giang…
2. Năm nay, bà Võ Thị Phương đã ở tuổi 70. Bà kể, bà bắt đầu nấu rượu từ năm 17 tuổi, mấy năm gần đây, tay chân chậm chạp, nên lâu lâu có giỗ quải bà mới nấu rượu để dùng trong gia đình. Bà mang ra một canh rượu mới nấu cách đây mấy ngày để dùng trong ngày giỗ chồng, rót cho tôi một ly nhỏ để nếm thử. Ngay từ lúc đang rót, đã có mùi thơm thoang thoảng bay ra. Không cay nồng như đặc sản Bầu Đá, rượu Vĩnh Giang dìu dịu nhưng khá mạnh, phổ biến từ 50-55 độ, có thể đến 70 độ. Cầm chai lắc lắc, rượu sủi tăm rất lâu.
< Bà Phương với các dụng cụ để nấu rượu.
Bà Phương cho biết, cách nấu rượu của người Vĩnh Giang chủ yếu mang tính gia truyền. Với cách làm của gia đình bà, công đoạn đầu tiên là nấu cơm, rồi giở ra cho cơm nguội bớt. Sau đó bóp nát, để cho cơm thật nguội, trộn với men. Ủ hỗn hợp cơm - men này trong thùng 3 đêm, sau đó đổ nước vào thùng, ủ thêm 3 đêm nữa mới bắt đầu nấu.
Có một chi tiết khá thú vị là mỗi hộ nấu rượu ở làng Vĩnh Giang chỉ đắp 1 cái lò duy nhất. Những cái lò ấy gần như đồng nhất về kích cỡ, cấu tạo cũng như vật liệu. Vì chỉ có 1 cái lò, nên nhà nào nấu nhiều thì phải đốt lò liên tục. Dulichgo
< Mỗi hộ nấu rượu ở Vĩnh Giang chỉ có 1 lò nấu rượu như thế này.
Về các nguyên liệu để nấu rượu, ngoài nước nguồn cạnh sông Côn, người dân Vĩnh Giang chủ yếu dùng lúa gạo của người dân trong làng hoặc mua của những làng xung quanh. Trước kia, người dân Vĩnh Giang chỉ dùng men cục để ủ cơm, giờ thì không ít người trẻ đã bắt đầu dùng men bột. Bà Phương cho biết: “Men bột do Trung Quốc làm, dùng ủ rượu làm rượu có mùi hăng. Men cục do dân mình làm, nấu rượu thì thơm hơn. Trước đây, tôi thường mua men của bà Điềm, chuyên làm men cục ở Định Thạnh, xã Vĩnh Hảo”. Nói đoạn, bà lấy cho tôi xem những cục men màu trắng đục còn dính vài vỏ trấu để trên đầu tủ.
Ở Vĩnh Giang bây giờ, nấu rượu nhiều nhất phải kể đến gia đình anh Lê Văn Điệp, mỗi ngày bán ra khoảng 15 lít rượu; kế đó là nhà bà Võ Thị Hiếu với hơn 10 lít/ngày. Làng rượu Vĩnh Giang thật sự tất bật vào thời điểm đầu tháng 11 âm lịch, khi những lò nấu rượu đỏ lửa suốt ngày đêm để phục vụ nhu cầu rượu ngày Tết. Có người đặt đến gần 40 lít rượu Vĩnh Giang để biếu bà con, họ hàng ở xa…
Tùy theo chất lượng, uy tín của từng gia đình, rượu Vĩnh Giang có giá từ 18.000-20.000 đồng mỗi lít nếu bán sỉ, còn bán lẻ thì mỗi lít hơn 25.000 đồng. Không sản xuất quy mô lớn, nhưng công việc nấu rượu độ nhật vẫn mang lại nguồn sống ổn định cho người dân Vĩnh Giang; nhất là những hộ kết hợp tốt giữa nấu rượu và nuôi heo…
3. Người Vĩnh Thạnh có câu “Bánh Vĩnh Cửu, rượu Vĩnh Giang”. Bánh Vĩnh Cửu là bánh tráng Vĩnh Cửu, cũng là một đặc sản của xứ Vĩnh Thạnh. Cái đặc biệt của bánh tráng mỏng Vĩnh Cửu là vừa đảm bảo được độ dẻo của bánh, nhưng khi nhúng nước lại không dính nên được người tiêu dùng ưa chuộng. Nghề tráng bánh tráng đã giúp không ít hộ ở Vĩnh Cửu có được cuộc sống thoải mái hơn so với nhiều vùng nông thôn khác trong huyện, lại không phải đi làm thuê làm mướn nơi xa mỗi lúc nông nhàn.
So với bánh tráng Vĩnh Cửu, rượu Vĩnh Giang vẫn chưa được phổ biến rộng rãi, mặc dù đã được tiêu thụ ở nhiều vùng lân cận, lên đến tận An Khê (Gia Lai). Khái niệm thương hiệu vẫn còn quá xa lạ với những người nông dân Vĩnh Giang. Họ vẫn bán rượu trong những chiếc canh đã cũ, còn nhãn mác thì chưa bao giờ nghĩ đến…
Một điều đáng suy nghĩ là, giờ đây, bí quyết nấu rượu của mỗi gia đình giờ đã lan rộng, số người nấu rượu ngày càng nhiều hơn. Chiếm đa phần trong số đó là những người trẻ mà nhiều người trong số đó chạy theo số lượng, hạ giá bán, không chú ý đúng mức đến chất lượng rượu. Nên, hương vị rượu Vĩnh Giang đang có nguy cơ mai một theo thời gian…
Theo Nguyễn Văn Trang (Báo Bình Định)
toimedulich
Khám phá làng chài Hải Minh
(PNO) - Khám phá làng chài Hải Minh (Bình Định) dịp cuối tuần là một trải nghiệm lý thú với những ai thích du lịch. Đến để ngắm biển, chinh phục núi cao, tìm dấu tích những di tích xưa...
Nằm trên bán đảo Phương Mai, làng chài Hải Minh (khu vực 9, phường Hải Cảng, Quy Nhơn, Bình Định) là một điểm đến thú vị cho những thích khám phá, trải nghiệm vùng đất mới.
Xuất phát từ bến đò Hàm Tử (Cảng cá Quy Nhơn), mất khoảng 20 phút bạn đặt chân đến Hải Minh, một làng chài trải dài bên mép sóng. Trên dãy núi Phương Mai sừng sững là tượng Đức Thành Trần Hưng Đạo uy nghiêm chỉ tay về hướng biển.
< Tượng đài Đức Thánh Trần trên đồi Hải Minh nhìn từ biển.
Làng chài Hải Minh được chia làm Hải Minh trong và Hải Minh ngoài. Hành trình khám phá bán đảo Hải Minh của chúng tôi bắt đầu. Nơi đầu tiên cả nhóm muốn tìm là tượng Đức thánh Trần trên đảo. Dulichgo
Men theo con đường nhỏ từ bến đò ở làng chài leo lên đồi nơi có tượng Đức Thánh Trần, cả nhóm mất khoảng 20 phút đi bộ bên con đường rợp trời hoa ngủ sắc. Những bông hoa ngũ sắc khoe hương trong nắng như mời gọi ong, bướm dập dịp.
Trên con đường lên đồi mở ra từng cảnh đẹp mênh mông, thỏa sức cho các tay máy tung tẩy, chớp lấy những khung hình đẹp nhất. Dulichgo
< Đường lên tượng đài rợp trời hoa ngũ sắc, ong bướm dập dìu.
Tượng đài Đức Thánh Trần Hưng Đạo được xây dựng và hoàn thành năm 1973, cao hơn 40m so với mực nước biển. Toàn bộ di tích được xây dựng như một công viên để những ai thăm viếng có thể nghỉ chân.
Dưới tượng Đức Thánh Trần là 4 bức phù điêu khắc họa 4 mặt bệ. Bức phía Đông diễn tả tấm lòng người anh hùng biết bỏ qua mối hiềm khích trong dòng tộc, để tạo mối đoàn kết toàn dân tộc làm sức mạnh đánh dẹp quân thù.
< Tượng Đức Thánh Trần, 4 bên bệ tượng là các bức phù điêu.
Bức phía Tây là hình ảnh Hưng Đạo Đại Vương kiên quyết khuyên vua xông pha đánh giặc, chứ không buông kiếm đầu hàng trước mối họa xâm lăng. Bức phía Nam là hình ảnh các bô lão tại hội nghị Diên Hồng, tay giơ cao hô vang hai chữ Sát Thát, đồng lòng cùng cả dân tộc quyết đuổi giặc ra khỏi bờ cõi.
Bức phía Bắc mô tả một trận thủy chiến với quân Nguyên - Mông, một cuộc chiến vang dội trong lịch sử với chiến công hiển hách của Đức Thánh Trần.
Đến nay, tượng đài Đức Thánh Trần tồn tại hơn 40 năm được xếp hạng di tích lịch sử và trở thành một biểu tượng của vùng đất Hải Minh nói riêng và Bình Định nói chung.
< Quy Nhơn như một dải lụa vắt ngang trời, mờ ảo trong sương.
Đứng từ trên tượng đài nhìn xuống bao quát được toàn bộ làng chài Hải Minh, một vùng mây nước. Nhìn về bên kia là thành phố Quy Nhơn như một dải lụa vắt ngang trời. Phía dưới chân tượng là ngọn hải đăng Phước Mai làm nhiệm vụ dẫn đường cho tàu bè ra vào cảng. Đứng từ trên tượng đài, chúng ta sẽ thấy những con tàu lớn được hoa tiêu dẫn đường vào cảng Quy Nhơn.
< Chinh phục núi Đá Đen tìm dấu tích Trường Lũy.
Rời tượng Đức Thánh Trần, cả nhóm tiếp tục chinh phục núi Đá Đen (núi Tam Tòa) tìm dấu tích Trường Lũy xưa. Vượt những cung đường khúc khuỷu, bám vào vách đá, băng qua bụi rậm... chúng tôi đã đặt chân lên đỉnh núi, tìm được Trường Lũy.
< Trường Lũy đá trên đỉnh núi Đá Đen.
Lũy đá cao từ 0,6m đến 1m tùy đoạn được tạo nên bằng cách xếp chồng lên nhau những hòn đá núi vừa khít. Mặt lũy đá khá bằng phẳng, rộng 0,5m.
< Địa y trên Trường Lũy.
Theo người dân địa phương, Trường Lũy này có từ thời nhà Nguyễn, điểm bắt đầu của Trường Lũy có thể từ tượng Đức Thánh Trần trải dài qua toàn bộ đỉnh núi Đá Đen.
Đứng trên Trường Lũy không chỉ nhìn bao quát toàn bộ TP Quy Nhơn mà con bao quát được Đầm Thị Nại mênh mông bên dưới.
< Di tích Điện Tam Tòa.
Xuống núi, chúng tôi men theo mép núi đi vào Hải Minh trong thăm Điện Tam Tòa. Điện Tam Tòa giờ đây chỉ còn là phế tích nhưng người dân nơi đây thành tâm thờ cúng.
Cụ Nguyễn Đông (82 tuổi, Hải Minh trong) cho hay: “Không rõ Điện Tam Tòa thờ vị nào nhưng người dân nơi đây vẫn gọi là Dinh Bà. Tuy không còn nguyên vẹn nhưng dân trong làng thành tâm thờ cúng. Nhằm ngày rằm, ngày đầu tháng, mọi người ra đương khấn vái...”.
12 giờ đồng hồ ở Hải Minh, chúng tôi có những trải nghiệm thú vị. Ngắm biển, ghi hình, chinh phục núi cao... và đặc biệt là thấy được lòng mến khách của người dân làng chài...
< Bãi Rạng nhìn từ trên Trường Lũy.
Bất kỳ ngôi nhà nào trên bán đảo này cũng là nơi nghỉ chân nếu bạn muốn. Người dân đảo không rộng nhà, rộng cửa nhưng rộng tấm lòng đón bất kỳ ai.
Một Hải Minh không xa Quy Nhơn nhưng cách biển, ngăn sông mà trở thành khác lạ. Hải Minh trở thành điểm đến thú vị tuy nhiên vẫn còn ít người biến đến, một tiềm năng du lịch đang bỏ ngỏ.
Theo Thu Dịu (Báo Phụ Nữ)
toimedulich
Hải Minh xanh
Khám phá Làng biển Hải Minh
Nằm trên bán đảo Phương Mai, làng chài Hải Minh (khu vực 9, phường Hải Cảng, Quy Nhơn, Bình Định) là một điểm đến thú vị cho những thích khám phá, trải nghiệm vùng đất mới.
Xuất phát từ bến đò Hàm Tử (Cảng cá Quy Nhơn), mất khoảng 20 phút bạn đặt chân đến Hải Minh, một làng chài trải dài bên mép sóng. Trên dãy núi Phương Mai sừng sững là tượng Đức Thành Trần Hưng Đạo uy nghiêm chỉ tay về hướng biển.
< Tượng đài Đức Thánh Trần trên đồi Hải Minh nhìn từ biển.
Làng chài Hải Minh được chia làm Hải Minh trong và Hải Minh ngoài. Hành trình khám phá bán đảo Hải Minh của chúng tôi bắt đầu. Nơi đầu tiên cả nhóm muốn tìm là tượng Đức thánh Trần trên đảo. Dulichgo
Men theo con đường nhỏ từ bến đò ở làng chài leo lên đồi nơi có tượng Đức Thánh Trần, cả nhóm mất khoảng 20 phút đi bộ bên con đường rợp trời hoa ngủ sắc. Những bông hoa ngũ sắc khoe hương trong nắng như mời gọi ong, bướm dập dịp.
Trên con đường lên đồi mở ra từng cảnh đẹp mênh mông, thỏa sức cho các tay máy tung tẩy, chớp lấy những khung hình đẹp nhất. Dulichgo
< Đường lên tượng đài rợp trời hoa ngũ sắc, ong bướm dập dìu.
Tượng đài Đức Thánh Trần Hưng Đạo được xây dựng và hoàn thành năm 1973, cao hơn 40m so với mực nước biển. Toàn bộ di tích được xây dựng như một công viên để những ai thăm viếng có thể nghỉ chân.
Dưới tượng Đức Thánh Trần là 4 bức phù điêu khắc họa 4 mặt bệ. Bức phía Đông diễn tả tấm lòng người anh hùng biết bỏ qua mối hiềm khích trong dòng tộc, để tạo mối đoàn kết toàn dân tộc làm sức mạnh đánh dẹp quân thù.
< Tượng Đức Thánh Trần, 4 bên bệ tượng là các bức phù điêu.
Bức phía Tây là hình ảnh Hưng Đạo Đại Vương kiên quyết khuyên vua xông pha đánh giặc, chứ không buông kiếm đầu hàng trước mối họa xâm lăng. Bức phía Nam là hình ảnh các bô lão tại hội nghị Diên Hồng, tay giơ cao hô vang hai chữ Sát Thát, đồng lòng cùng cả dân tộc quyết đuổi giặc ra khỏi bờ cõi.
Bức phía Bắc mô tả một trận thủy chiến với quân Nguyên - Mông, một cuộc chiến vang dội trong lịch sử với chiến công hiển hách của Đức Thánh Trần.
Đến nay, tượng đài Đức Thánh Trần tồn tại hơn 40 năm được xếp hạng di tích lịch sử và trở thành một biểu tượng của vùng đất Hải Minh nói riêng và Bình Định nói chung.
< Quy Nhơn như một dải lụa vắt ngang trời, mờ ảo trong sương.
Đứng từ trên tượng đài nhìn xuống bao quát được toàn bộ làng chài Hải Minh, một vùng mây nước. Nhìn về bên kia là thành phố Quy Nhơn như một dải lụa vắt ngang trời. Phía dưới chân tượng là ngọn hải đăng Phước Mai làm nhiệm vụ dẫn đường cho tàu bè ra vào cảng. Đứng từ trên tượng đài, chúng ta sẽ thấy những con tàu lớn được hoa tiêu dẫn đường vào cảng Quy Nhơn.
< Chinh phục núi Đá Đen tìm dấu tích Trường Lũy.
Rời tượng Đức Thánh Trần, cả nhóm tiếp tục chinh phục núi Đá Đen (núi Tam Tòa) tìm dấu tích Trường Lũy xưa. Vượt những cung đường khúc khuỷu, bám vào vách đá, băng qua bụi rậm... chúng tôi đã đặt chân lên đỉnh núi, tìm được Trường Lũy.
< Trường Lũy đá trên đỉnh núi Đá Đen.
Lũy đá cao từ 0,6m đến 1m tùy đoạn được tạo nên bằng cách xếp chồng lên nhau những hòn đá núi vừa khít. Mặt lũy đá khá bằng phẳng, rộng 0,5m.
< Địa y trên Trường Lũy.
Theo người dân địa phương, Trường Lũy này có từ thời nhà Nguyễn, điểm bắt đầu của Trường Lũy có thể từ tượng Đức Thánh Trần trải dài qua toàn bộ đỉnh núi Đá Đen.
Đứng trên Trường Lũy không chỉ nhìn bao quát toàn bộ TP Quy Nhơn mà con bao quát được Đầm Thị Nại mênh mông bên dưới.
< Di tích Điện Tam Tòa.
Xuống núi, chúng tôi men theo mép núi đi vào Hải Minh trong thăm Điện Tam Tòa. Điện Tam Tòa giờ đây chỉ còn là phế tích nhưng người dân nơi đây thành tâm thờ cúng.
Cụ Nguyễn Đông (82 tuổi, Hải Minh trong) cho hay: “Không rõ Điện Tam Tòa thờ vị nào nhưng người dân nơi đây vẫn gọi là Dinh Bà. Tuy không còn nguyên vẹn nhưng dân trong làng thành tâm thờ cúng. Nhằm ngày rằm, ngày đầu tháng, mọi người ra đương khấn vái...”.
12 giờ đồng hồ ở Hải Minh, chúng tôi có những trải nghiệm thú vị. Ngắm biển, ghi hình, chinh phục núi cao... và đặc biệt là thấy được lòng mến khách của người dân làng chài...
< Bãi Rạng nhìn từ trên Trường Lũy.
Bất kỳ ngôi nhà nào trên bán đảo này cũng là nơi nghỉ chân nếu bạn muốn. Người dân đảo không rộng nhà, rộng cửa nhưng rộng tấm lòng đón bất kỳ ai.
Một Hải Minh không xa Quy Nhơn nhưng cách biển, ngăn sông mà trở thành khác lạ. Hải Minh trở thành điểm đến thú vị tuy nhiên vẫn còn ít người biến đến, một tiềm năng du lịch đang bỏ ngỏ.
Theo Thu Dịu (Báo Phụ Nữ)
toimedulich
Hải Minh xanh
Khám phá Làng biển Hải Minh
Nhà thờ đá Sapa
Tọa lạc ngay trung tâm thị trấn Sapa, nhà thờ Đá Sapa được xây dựng từ năm 1895 được coi là một dấu ấn kiến trúc cổ toàn vẹn nhất của người Pháp còn sót lại. Nhà thờ đã được tôn tạo và bảo tồn, trở thành một hình ảnh không thể thiếu khi nhắc đến thị trấn Sa Pa mù sương.
Nhà thờ có khá nhiều tên gọi do thói quen của người dân và khách du lịch như Nhà thờ đá cổ Sapa, nhà thờ Đức Mẹ Mân côi, nhà thờ đá...v.v. Nhà thờ được xây từ thời Pháp thuộc, là một trong những dấu ấn kiến trúc của người Pháp còn lại vẹn toàn nhất. Theo một số ghi chép lại, nhà thờ đã được xây dựng có mặt tiền quay về hướng Đông tức là hướng mặt trời mọc. Có người giải thích cho rằng đó là hướng đón nguồn sáng của Thiên Chúa. Ở khu có tháp chuông, tức là phía cuối nhà thơ, được quay về hướng Tây có ý nghĩa chính là nơi sinh thành của Chúa Kitô.
Hình dạng và kiến trúc của Nhà thờ được xây theo hình thập giá theo kiến trúc Gotic La Mã. Kiến trúc đó thể hiện ở mái nhà, tháp chuông, vòm cuốn… đều là hình chóp tạo cho công trình nét bay bổng thanh thoát. Toàn bộ nhà thờ được xây bằng đá đẽo (tường, nền nhà, tháp chuông, sân nhà thờ, bờ kè xung quanh) được liên kết với nhau bằng hỗn hợp của cát, vôi và mật mía. Phần tường của cánh thánh giá bên phải được tạo nhám như nhũ đá chảy xuống làm tăng thêm vẻ đẹp tự nhiên cho di tích. Mái nhà lợp ngói, trần nhà bằng vôi rơm (nay làm mới). Đặc biệt trần ở phần gác chuông (gần quả chuông) là hỗn hợp của vôi, rơm, sắt... nguyên thủy chưa sửa chữa lần nào.
Với tổng diện tích của khuôn viên nhà thờ hơn 6.000m², nhà thờ Sa Pa có đủ chỗ cho việc bố trí các khu bao gồm: Khu nhà thờ, dẫy nhà xứ, nhà ở của thầy tu, nhà chăn nuôi, nhà thiên thần, phần sân phía trước, hàng rào, khu Vườn Thánh. Dãy nhà xứ xây song song với khu nhà thờ gồm 5 gian.
Khu nhà thờ gồm 7 gian rộng hơn 500m², phần tháp chuông cao 20 m, trong tháp có quả chuông cao 1,5m đúc năm 1932 nặng 500 kg, tiếng vang trong vòng bán kính gần 1km. Hiện, trên bề mặt của chuông còn rõ nét ghi đúc, số người quyên góp tiền đúc chuông… Phần giá đỡ chuông bằng gỗ pơmu vẫn giữ nguyên sau lần trùng tu.
Ngôi nhà thờ này nằm ngay giữa Trung tâm thị trấn du lịch Sapa với phía sau là núi Hàm Rồng che chắn, phía trước là khu đất rộng, bằng phẳng, có thể phát triển nhiều công trình văn hóa phục vụ cho các hoạt động xã hội.
Hằng ngày, người dân tộc tập trung đông đúc ở đây mua bán, trao đổi hàng hóa. Đây cũng chính là nơi mà thứ 7 hàng tuần réo rắt tiếng khèn gọi bạn của những đôi trai gái trong phiên chợ tình mang đầy nét văn hóa dân tộc và hơi thở núi rừng Tây Bắc.
Hai công trình kiến trúc khác gần đó cũng do người Pháp xây dựng là biệt thự Chủ Cầu (nay là khách sạn Hoàng Liên) và khu huyện ủy cũ (nay là trụ sở của Trung tâm Thông tin Du lịch Lào Cai) tạo thành một hình tam giác cân đối với kiến trúc riêng biệt mang phong cách Pháp.
Nhà thờ Mân côi giữa khu trung tâm Sa Pa là điểm hẹn của nhiều khách du lich sapa mỗi khi có dịp đến đây. Tuy qua một số lần trùng tu, cải tạo do chiến tranh và sự tàn phá khốc liệt của thiên nhiên nhưng nhà thờ vẫn giữ được nét duyên dáng và hồn của công trình kiến trúc tôn giáo.
toimedulich tổng hợp tà la
Nhà thờ có khá nhiều tên gọi do thói quen của người dân và khách du lịch như Nhà thờ đá cổ Sapa, nhà thờ Đức Mẹ Mân côi, nhà thờ đá...v.v. Nhà thờ được xây từ thời Pháp thuộc, là một trong những dấu ấn kiến trúc của người Pháp còn lại vẹn toàn nhất. Theo một số ghi chép lại, nhà thờ đã được xây dựng có mặt tiền quay về hướng Đông tức là hướng mặt trời mọc. Có người giải thích cho rằng đó là hướng đón nguồn sáng của Thiên Chúa. Ở khu có tháp chuông, tức là phía cuối nhà thơ, được quay về hướng Tây có ý nghĩa chính là nơi sinh thành của Chúa Kitô.
Hình dạng và kiến trúc của Nhà thờ được xây theo hình thập giá theo kiến trúc Gotic La Mã. Kiến trúc đó thể hiện ở mái nhà, tháp chuông, vòm cuốn… đều là hình chóp tạo cho công trình nét bay bổng thanh thoát. Toàn bộ nhà thờ được xây bằng đá đẽo (tường, nền nhà, tháp chuông, sân nhà thờ, bờ kè xung quanh) được liên kết với nhau bằng hỗn hợp của cát, vôi và mật mía. Phần tường của cánh thánh giá bên phải được tạo nhám như nhũ đá chảy xuống làm tăng thêm vẻ đẹp tự nhiên cho di tích. Mái nhà lợp ngói, trần nhà bằng vôi rơm (nay làm mới). Đặc biệt trần ở phần gác chuông (gần quả chuông) là hỗn hợp của vôi, rơm, sắt... nguyên thủy chưa sửa chữa lần nào.
Với tổng diện tích của khuôn viên nhà thờ hơn 6.000m², nhà thờ Sa Pa có đủ chỗ cho việc bố trí các khu bao gồm: Khu nhà thờ, dẫy nhà xứ, nhà ở của thầy tu, nhà chăn nuôi, nhà thiên thần, phần sân phía trước, hàng rào, khu Vườn Thánh. Dãy nhà xứ xây song song với khu nhà thờ gồm 5 gian.
Khu nhà thờ gồm 7 gian rộng hơn 500m², phần tháp chuông cao 20 m, trong tháp có quả chuông cao 1,5m đúc năm 1932 nặng 500 kg, tiếng vang trong vòng bán kính gần 1km. Hiện, trên bề mặt của chuông còn rõ nét ghi đúc, số người quyên góp tiền đúc chuông… Phần giá đỡ chuông bằng gỗ pơmu vẫn giữ nguyên sau lần trùng tu.
Ngôi nhà thờ này nằm ngay giữa Trung tâm thị trấn du lịch Sapa với phía sau là núi Hàm Rồng che chắn, phía trước là khu đất rộng, bằng phẳng, có thể phát triển nhiều công trình văn hóa phục vụ cho các hoạt động xã hội.
Hằng ngày, người dân tộc tập trung đông đúc ở đây mua bán, trao đổi hàng hóa. Đây cũng chính là nơi mà thứ 7 hàng tuần réo rắt tiếng khèn gọi bạn của những đôi trai gái trong phiên chợ tình mang đầy nét văn hóa dân tộc và hơi thở núi rừng Tây Bắc.
Hai công trình kiến trúc khác gần đó cũng do người Pháp xây dựng là biệt thự Chủ Cầu (nay là khách sạn Hoàng Liên) và khu huyện ủy cũ (nay là trụ sở của Trung tâm Thông tin Du lịch Lào Cai) tạo thành một hình tam giác cân đối với kiến trúc riêng biệt mang phong cách Pháp.
Nhà thờ Mân côi giữa khu trung tâm Sa Pa là điểm hẹn của nhiều khách du lich sapa mỗi khi có dịp đến đây. Tuy qua một số lần trùng tu, cải tạo do chiến tranh và sự tàn phá khốc liệt của thiên nhiên nhưng nhà thờ vẫn giữ được nét duyên dáng và hồn của công trình kiến trúc tôn giáo.
toimedulich tổng hợp tà la
Sông Hoài bình yên giữa phố cổ
Dù sáng sớm, chiều tà hay tối khuya, lúc nào những con thuyền nhỏ cũng mang đến du khách trải nghiệm đặc biệt về cuộc sống phố Hội. Sông Hoài, dòng sông nhỏ êm đềm chảy qua phố cổ như một món quà quý mà thiên nhiên ban tặng cho Hội An. Chẳng những đem lại hơi nước mát lành cho phố thị mà còn tạo ra một cảnh quan trên bến dưới thuyền độc đáo với những đêm hội hoa đăng đầy ấn tượng.
Sông Hoài là một nhánh của sông Thu Bồn chảy qua Hội An. Với người dân nơi đây nói riêng và du khách nói chung, con sông này như biểu tượng không thể tách rời của phố cổ. Không chỉ vậy, dòng sông nhỏ hiền hòa này còn gắn liền với cuộc sống mưu sinh của dân cư phố Hội. Nghề chính của họ là chèo thuyền, đưa khách du lịch tham quan.
Một ngày trên sông thường bắt đầu từ sáng sớm. Chính vì nhu cầu muốn ngắm bình minh, nhiều đoàn khách thường tới bến thuyền từ sớm. Do vậy, người dân nơi đây phải chuẩn bị trước, khi có khách là sẵn sàng lên đường.
Một chuyến lênh đênh sông nước có giá từ 30.000 đến 50.000 đồng. Bạn sẽ được du ngoạn phố Hội trong vòng 30 phút. Với những đoàn khách đông hơn, mức giá khoảng 100.000 đồng.
Điểm hấp dẫn nơi đây là các con thuyền đều không sử dụng động cơ máy. Điều này khiến du khách được cảm nhận rõ rệt nhất về sự cổ kính và nét giản dị, gần gũi nơi đây.
Dulichgo
Không chỉ chiêm ngưỡng cảnh đẹp Hội An, du khách còn được nghe những câu chuyện thường ngày thú vị từ người lái đò. Cùng tiếng mái chèo khỏa nước giữa không gian yên bình, ấn tượng về miền đất bình yên trong mỗi người cứ thế đầy lên.
Vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày, bạn đều thấy những con thuyền nhỏ chở khách trên sông nước. Dù sáng sớm nắng nhẹ, chiều tàn...
... hay khi đêm đã xuống. Chỉ cần khách có nhu cầu, những người lái đò ở đây lúc nào cũng sẵn lòng đẩy thuyền rời bến.
Nếu có cơ hội, bạn hãy thử đi thuyền trên sông Hoài vào buổi tối. Đặc biệt vào những đêm hoa đăng. Bạn có thể mua một bông hoa nhỏ với giá 10.000 đồng để thả lên mặt nước. Cùng với ánh đèn từ các ngôi nhà, cả bến sông trở nên lung linh hệt như những câu chuyện cổ tích.
Một góc Hội An nhìn từ những con thuyền nhỏ.
Theo Cao Anh Tuấn (Vnexpress)
toimedulich
Sông Hoài là một nhánh của sông Thu Bồn chảy qua Hội An. Với người dân nơi đây nói riêng và du khách nói chung, con sông này như biểu tượng không thể tách rời của phố cổ. Không chỉ vậy, dòng sông nhỏ hiền hòa này còn gắn liền với cuộc sống mưu sinh của dân cư phố Hội. Nghề chính của họ là chèo thuyền, đưa khách du lịch tham quan.
Một ngày trên sông thường bắt đầu từ sáng sớm. Chính vì nhu cầu muốn ngắm bình minh, nhiều đoàn khách thường tới bến thuyền từ sớm. Do vậy, người dân nơi đây phải chuẩn bị trước, khi có khách là sẵn sàng lên đường.
Một chuyến lênh đênh sông nước có giá từ 30.000 đến 50.000 đồng. Bạn sẽ được du ngoạn phố Hội trong vòng 30 phút. Với những đoàn khách đông hơn, mức giá khoảng 100.000 đồng.
Điểm hấp dẫn nơi đây là các con thuyền đều không sử dụng động cơ máy. Điều này khiến du khách được cảm nhận rõ rệt nhất về sự cổ kính và nét giản dị, gần gũi nơi đây.
Dulichgo
Không chỉ chiêm ngưỡng cảnh đẹp Hội An, du khách còn được nghe những câu chuyện thường ngày thú vị từ người lái đò. Cùng tiếng mái chèo khỏa nước giữa không gian yên bình, ấn tượng về miền đất bình yên trong mỗi người cứ thế đầy lên.
Vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày, bạn đều thấy những con thuyền nhỏ chở khách trên sông nước. Dù sáng sớm nắng nhẹ, chiều tàn...
... hay khi đêm đã xuống. Chỉ cần khách có nhu cầu, những người lái đò ở đây lúc nào cũng sẵn lòng đẩy thuyền rời bến.
Nếu có cơ hội, bạn hãy thử đi thuyền trên sông Hoài vào buổi tối. Đặc biệt vào những đêm hoa đăng. Bạn có thể mua một bông hoa nhỏ với giá 10.000 đồng để thả lên mặt nước. Cùng với ánh đèn từ các ngôi nhà, cả bến sông trở nên lung linh hệt như những câu chuyện cổ tích.
Một góc Hội An nhìn từ những con thuyền nhỏ.
Theo Cao Anh Tuấn (Vnexpress)
toimedulich
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)