Thứ Ba, 2 tháng 12, 2014

Lộng lẫy bờ tây sông Hàn

(TBKTSG) - Nói đến những con đường ở Đà Nẵng người ta thường nhắc đường Bạch Đằng bên tả ngạn sông Hàn bởi nó không chỉ lưu giữ những di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc... mang bản sắc đô thị Đà Nẵng mà còn là nơi để tiếp cận, thưởng ngoạn cảnh quan thiên nhiên khoáng đạt của một thành phố đứng bên thềm đại dương.

Bao lơn ôm lấy thành phố

Trong một lần về Đà Nẵng, kiến trúc sư Nguyễn Văn Tất ở tạp chí Kiến trúc Nhà đẹp, sau khi dạo quanh một vòng, đã thốt lên: Thành phố Đà Nẵng đang sở hữu một con đường tuyệt đẹp, nó như một bao lơn ôm bọc lấy thành phố như người mẹ ôm con vào lòng, thân thiện mà bao dung.


< Một đoạn đường Bạch Đằng, thành phố Đà Nẵng về đêm.

Tự bản thân con đường đã mang trong mình bao nét xưa phố cũ hài hòa với những công trình kiến trúc hiện đại như thể bản thân con đường là một bộ nhớ được tiếp nối từ quá khứ tới hiện tại với một không gian văn hóa đầy sức sống và mở ra những tầm nhìn thưởng ngoạn cảnh quan thật kỳ diệu.

Đồng quan điểm như thế, một kiến trúc sư khác lại ví con đường này là một phòng khách ấm áp nếu xem Đà Nẵng như một ngôi nhà. Phòng khách này luôn trong tư thế tạo nên ấn tượng mời gọi khách bước vào nhà. Mà phòng khách luôn là một không gian kiến trúc được đầu tư và thiết kế mất nhiều công sức nhất, nó là một điểm nhấn đầu tiên khi người ta đến nhà bạn. Vì thế, thường khi tiếp khách phương xa người Đà Nẵng thường đưa bạn đi dọc con đường Bạch Đằng, bởi con đường còn là niềm tự hào của người địa phương.

Di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc

< Đoạn bờ sông bên dưới chợ Hàn trước đây là một đầu mối giao thông quan trọng; vừa là bến cảng hàng hóa, vừa là nơi còn dấu tích nhà ga xe lửa từ thời Pháp thuộc. (Ảnh chụp năm 1969).

Từ lâu con đường này là một không gian kiến trúc đã được kiến tạo bởi nhiều thế hệ từ khi Đà Nẵng còn mang tên là Tourane cho đến bây giờ. Trong đó, còn phải kể đến yếu tố của cảnh quan tự nhiên đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nên một vẻ đẹp riêng đầy hấp dẫn.

Con đường dọc theo sông Hàn, ôm một cánh vòng cung thành phố trước đây nối dài từ Cổ Viện Chàm đến cửa sông, nay thì nối dài với đường Tiểu La, đường 2-9, ra quốc lộ 1A phía tây nam và đường Nguyễn Tất Thành dọc bờ biển ở phía đông bắc kéo dài lên đèo Hải Vân.

< Bờ kè và hành lang đi bộ rộng rãi dọc bờ tây sông Hàn, song song bên đường Bạch Đằng.

Con đường còn sở hữu nhiều di tích văn hoá và kiến trúc của thành phố. Cổ Viện Chàm, nơi lưu giữ và trưng bày hàng trăm tác phẩm điêu khắc, các tượng thần của nhiều giai đoạn lịch sử nền văn hoá Chăm đầy bí ẩn, diệu kỳ. Đây được coi là bảo tàng có giá trị văn hóa, nghệ thuật và lịch sử của nhân loại. Và hiện là địa chỉ thu hút khách du lịch từ khắp nơi nhiều năm qua.

Phía trên là chuỗi nhà phố và chợ Hàn, nơi trước đây là ga cũ thời thuộc Pháp (từ Đà Nẵng đi Hội An). Còn phía dưới là chuỗi cơ quan, trung tâm, văn hoá, những công trình kiến trúc mang dấu ấn thời thuộc Pháp.

< Đường Bạch Đằng lộng lẫy về đêm.

Ẩn giấu trong đó không chỉ là nét xưa cũ mà còn kết tinh của một nền kiến trúc mà giá trị đã được thừa nhận, phù hợp và hài hoà với cảnh quan chung quanh. Ví như Thư viện thành phố, trước đây là Trung tâm văn hoá Pháp được xây dựng trên gò đất cao rộng lớn, với không gian phủ đầy cây xanh. Phía trước cổng còn giữ lại hai khẩu súng thần công, biểu tượng suốt cả chặng đường lịch sử của thành phố bên sông Hàn. Sau lưng là thành Điện Hải (phía đường Trần Phú) là một pháo đài án ngữ ở cửa biển còn vang lừng chiến công đánh Pháp của quân dân Đà Nẵng cùng vị tướng quân đầy dũng khí Nguyễn Tri Phương năm 1858.

Chiêm ngắm cảnh quan mùa lễ hội

Nếu bạn đi dọc đường Bạch Đằng sẽ cảm nhận được vẻ đẹp đặc thù của Đà Nẵng. Núi trong lòng phố, phố bên thềm đại dương và sông nước. Bạn có thể nhìn ngắm mây núi Sơn Trà trước mặt, danh thắng Ngũ Hành Sơn, núi Hải Vân ẩn hiện trong mây trắng và con sông Hàn mang nặng phù sa. Và nơi dòng sông về gặp biển, cây cầu Liên Chiểu - Thuận Phước như một cầu vồng vươn qua cửa biển trong vẻ đẹp vừa thơ mộng vừa hùng vĩ.

< Từ đây có thể nhìn thấy được 4 cây cầu trên sông Hàn.

Đứng trên cầu mới cảm nhận sự hùng vĩ của cảnh quan, một màu xanh của núi Sơn Trà, sông Hàn, cửa biển đúng với câu thơ cổ "Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc". Cầu Rồng, Cầu Trần Thị Lý đang được xây dựng, đây là những cây cầu có quy mô hiện đại mang tính thẩm mỹ cao, vì thế không chỉ giải quyết vấn đề giao thông mà còn làm tăng vẻ đẹp cho thành phố bên sông bên biển này. Dulichgo

Đường Bạch Đằng đã được xây kè, lan can để mọi người thả bộ nhàn du. Dự kiến, chính quyền thành phố sẽ dời cảng Đà Nẵng qua cảng Tiên Sa để cho con đường thêm thông thoáng, để từ đó đánh thức nỗi khát vọng sâu thẳm của dòng sông khi về với biển. Và, cuối đường Trần Phú, nơi ngã ba Bạch Đằng - Đống Đa sẽ xây dựng một tượng đài điêu khắc đá của nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng mang tên Đất lành chim đậu.

Cũng bởi con đường có nhiều ưu thế về địa hình, cảnh quan thẩm mỹ và điều kiện thuận lợi để dựng những sân khấu lớn nên những ngày lễ lớn, mùa lễ hội du lịch đều được tổ chức trên đường này. Và chính trong những thời khắc ây, đường Bạch Đằng như khoác vào cho mình một bộ xiêm y lộng lẫy hơn bao giờ hết.

Theo Hồ Sĩ Bình (The Saigon Times)
toimedulich

Thứ Hai, 1 tháng 12, 2014

Ký ức...

Bùi Hoằng: Nhân dịp ngày thành lập QĐNDVN, tôi gửi anh bài viết và một số hình ảnh chuyến đi Trường Sơn tháng 7/2014.

Sự ra đời  và bước trưởng thành của Quân Đội NDVN

Từ cuối năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ II bắt đầu, cách mạng Việt Nam chuyển hướng chiến lược, đặt nhiệm vụ trọng tâm vào giải phóng dân tộc, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Trong phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật, các cuộc khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ đã diễn ra trên nhiều địa phương. Những tổ chức vũ trang không tập trung và tập trung sinh ra từ lực lượng cách mạng đông đảo của quần chúng đã xuất hiện trong khắp cả nước...

< Dâng hương tưởng niệm Mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Vũng Chùa-Đảo Yến.

Sự phát triển mạnh mẽ, rộng khắp của phong trào đấu tranh của quần chúng, sự trưởng thành nhanh chóng của các tổ chức vũ trang quần chúng đòi hỏi cách mạng Việt Nam lúc này phải có một đội quân chủ lực thống nhất về mặt tổ chức.

Sau một thời gian khẩn trương chuẩn bị, ngày 22-12-1944 ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN được thành lập, theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Chỉ thị Người ghi rõ: "Tên: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền".  "Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác".  Những đội vũ trang tập trung và không tập trung trong cả nước sinh ra từ lực lượng cách mạng đông đảo của quần chúng, là những tổ chức tiền thân của các lực lượng vũ trang nhân dân, của quân đội nhân dân.

< Dâng hương tại nghĩa trang TNXP tại xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, Quảng bình hồi 17h ngày 26/7/2014, cùng với lãnh đạo các ban ngành huyện Quảng Nình.

Tháng 4-1945, Hội nghị quân sự Bắc Kỳ của Đảng quyết định hợp nhất các tổ chức vũ trang trên cả nước thành lập Việt Nam giải phóng quân. Cách mạng Tháng Tám thành công. Việt Nam giải phóng quân được đổi tên thành Vệ quốc quân, rồi thành Quân đội quốc gia Việt Nam và về sau, đến năm 1950 được đổi tên là Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ngày 22-12-1944, ngày thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được lấy làm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trên cơ sở đánh giá thời cơ và tình hình cách mạng trong nước, Đảng ta đã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đồng loại đứng dậy tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng trước một tình thế rất phức tạp và chồng chất khó khăn. Cùng một lúc, chúng ta phải đối phó với cả “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”. Ở miền Bắc, gần 20 vạn quân Tưởng vào giải giáp phát xít Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra. Ở miền Nam, thực dân Pháp được quân Anh giúp sức đã trắng trợn gây hấn ở Nam Bộ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các lực lượng vũ trang và nhân dân ta nhất tề đứng dậy hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.  Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Với tinh thần “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, cuộc chiến đấu ở thủ đô Hà Nội và các thành phố, thị xã đã tiêu hao, tiêu diệt và giam chân một lực lượng lớn quân địch, tạo điều kiện cho cả nước chuyển vào cuộc kháng chiến lâu dài.

Tháng 6/1950, ta mở Chiến dịch Biên Giới nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới, mở đường thông với các nước xã hội chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Vừa chiến đấu, vừa xây dựng, từ năm 1949 - 1952, Quân đội ta đã thành lập được nhiều đại đoàn chủ lực, như: Đại đoàn 304, 308, 316, 325 và Đại đoàn công pháo 351. Tháng 9/1953, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954. Với 5 đòn tấn công chiến lược, quân và dân ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, nắm quyền chủ động trên các chiến trường Đông Dương và làm phá sản âm mưu tập trung lực lượng cơ động của Na-va, buộc chúng phải căng ra đối phó ở khắp nơi. Kế hoạch của Na-va bắt đầu bị phá sản.

Trước thời cơ thuận lợi, ngày 06/12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cùng với thắng lợi trên các chiến trường khác đã góp phần giáng đòn quyết định làm thất bại kế hoạch Na-va, đồng thời có ý nghĩa quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trực tiếp dẫn đến thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương, buộc pháp phải công nhận độc lập dân tộc, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

< Làm lễ cầu siêu cho các liệt sĩ tại nhà bia ngã ba Dân Chủ, trên tuyến đường HCM nhánh Tây,  thuộc địa phận Xã Hướng Lập, Hướng Hóa, quảng Trị.

Chiến thắng Điện Biên Phủ chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông Dương, tạo cơ sở và điều kiện vững chắc để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, thống nhất Tổ quốc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Sau năm 1954, miền Bắc hừng hực khí thế cách mạng bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, cải cách ruộng đất, phát triển sản xuất, khôi phục kinh tế đã tạo ra những chuyển biến to lớn về kinh tế, chính trị, xã hội, là chỗ dựa và hậu phương lớn của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Ở miền Nam, Mỹ ra sức xây dựng ngụy quân, chỉ huy chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áo đẫm máu những người yêu nước, hô hào “Bắc tiến”, “lấp sông Bến Hải”; mở các chiến dịch lớn đánh vào nhân dân, trả thù những người kháng chiến, thẳng tay thi hành cái gọi là “Quốc sách tố cộng, diệt cộng”, “Luật 10/59”…

Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (tháng 1/1959) xác định con đường, mục tiêu, phương pháp cách mạng ở miền Nam, mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miền Nam - Bắc; giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngày 28/8/1959 nhân dân nhiều xã trong huyện Trà Bồng (tỉnh Quảng Ngãi) nổi dậy giành chính quyền. Ngày 17/01/1960, nhân dân các huyện Mỏ Cày, Minh Tân, Thạnh Phú tỉnh Bến Tre nhất loạt nổi dậy, phá thế kìm kẹp, tạo nên phong trào “Đồng Khởi” lan rộng ra ở nhiều tỉnh Nam Bộ, Khu 5. Từ phong trào “Đồng Khởi”, lực lượng vũ trang và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp của ta từng bước hình thành. Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.

Để chi viên sức người, sức của cho chiến trường miền Nam Bác Hồ Và Bộ Chính trọ đã quyết định mở tuyến chiến lược trên Trường Sơn, sau này được gọi là Đoàn 559. Cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam được phát động một cách độc đáo, khéo léo, phù hợp với thời cơ lịch sử. Cách mạng miền Nam đã vượt qua giai đoạn khó khăn, chuyển hẳn sang thế tiến công. Từ cuối năm 1960, hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm bị thất bại, đế quốc Mỹ vội vàng thay đổi, chuyển sang dùng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.

< Di tich đường 10 Cũ từ ngã Ba Dân Chủ đi xuôi dốc xuống đến ngầm Dân Chủ tại km 71 đường 10.

Để đối phó với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng miền Nam, đế quốc Mỹ đã thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Chúng đưa tiền của, vũ khí và cố vấn vào miền Nam, chỉ huy quân đội ngụy tiến hành chiến tranh, càn quét, dồn dân, theo chiến thuật “tát nước bắt cá”. Với kinh nghiệm đấu tranh, quân và dân miền Nam đã sáng tạo ra hình thức tiến công “hai chân (quân sự, chính trị), ba mũi (quân sự, chính trị, binh vận), ba vùng (rừng núi, đồng bằng, thành thị)”, tiến hành thắng lợi một số chiến dịch quy mô nhỏ và vừa (Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài), tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện kỹ thuật của địch, đẩu ngụy quyền Sài Gòn rơi vào tình trạng khủng hoảng triền miên.

Từ tháng 11/1963 đến tháng 6/1965, đã xảy ra 14 lần đảo chính và phản đảo chính ở miền Nam. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Manara từ miền Nam Việt Nam về báo cáo trước Nhà Trắng và Quốc hội Mỹ rằng: “Quân lực Việt Nam cộng hòa đã không còn đủ sức chiến đấu, chế độ Sài Gòn đã thất bại”. Trước những thất bại liên tiếp của ngụy quân, ngụy quyền ở miền Nam, nhằm cứu vãn tình thế, Mỹ dựng nên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”. Ngày 05/8/1964, Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân, hòng ngăn chặn sự chi viên sức người, sức của cho miền Nam.

Ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi lịch sử : “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” miền Bắc đã phát động nhiều phong trào thi đua ái quốc, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Tay búa, tay súng” của công nhân, “Ba quyết tâm” của tri thức tạo nên ý chí mới, sức mạnh mới cỗ vũ toàn dân đánh giặc. Trên chiến trường miền Nam, vừa xây dựng, vừa chiến đấu, lực lượng vũ trang quân giải phóng đã tổ chức các đợt tiến công, bẻ gẫy nhiều cuộc hành quân quy mô lớn của Mỹ - Ngụy.

Mở đầu là chiến thắng Núi Thành, Quảng Nam (26/5/1965), tiếp đó là chiến công vang dội đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 - 1966, 1966 - 1967) làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Thực hiện chủ trương của Đảng, quân và dân ta mở cuộc Tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, nhằm giáng một đòn quyết liệt và ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta thực sự là “một đòn sét đánh” đối với bọn trùm xâm lược Mỹ, làm chấn động dư luận thế giới. Thắng lợi của cuộc tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari. Sự nghiệp cách mạng chính nghĩa của dân tộc ta đã có điều kiện mở ra mặt trận tiến công mới về ngoại giao “vừa đánh, vừa đàm”. Thất bại trên chiến trường miền Nam, đế quốc đã nham hiểm thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, dùng người Việt đánh người Việt, mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương. Quân và dân ta đã phối hợp với quân đội và nhân dân Lào, Campuchia, đánh địch trên khắp chiến trường, đập tan quá trình tiến công, phản kích bằng các cuộc hành quân lớn của địch.

< UBND xã Hướng Lập.

Đầu năm 1972, quân và dân ta mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, làm thay đổi so sánh lực lượng và thay đổi cục diện chiến tranh, dồn Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn vào thế yếu trầm trọng hơn. Với tinh thần dũng cảm, bằng cách đánh mưu trí, linh hoạt, quân và dân miền Bắc đã đánh thắng cuộc tập kích chiến lược lần thứ 2 bằng B52 của Mỹ, lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không” tại bầu trời Hà Nội bắn rơi hơn 600 máy bay, trong đó có chiếc thứ 4.000 bị bắn rơi trên miền Bắc, bắn chìm và bắn cháy gần 100 tàu chiến Mỹ. Thắng lợi to lớn của quân và dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc, buộc Mỹ phải ký “Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam” (27/1/1973).

Tại Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10/1974 và đầu năm 1975, Đảng ta đã đánh giá so sánh lực lượng và đề ra quyết tâm giải phóng miền Nam.  Với thế lực mới, quân và dân ta đã chủ động tiến công giải phóng Phước Long (06/1/1975). Ngày 04/3/1975, bí mật, bất ngờ mở chiến dịch Tây Nguyên. Ngày 10/3/1975, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Ngày 29/4/1975, quân và dân ta tiến hành tổng tiến công trên toàn mặt trận. Quân địch hoang mang cao độ, tan rã, rút chạy, đầu hàng từng bộ phận.  Trước thời cơ, vận hội mới, ngày 30/4/1975, các binh đoàn chủ lực của quân đội ta đột kích, thọc sâu kết hợp với lực lượng bên trong nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu của địch ở nội thành. Binh đoàn hỗn hợp của Quân đoàn 2 chiếm Dinh Độc Lập lúc 10 giờ 45 phút, bắt toàn bộ ngụy quyền trung ương, buộc chúng tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, cờ giải phóng đã tung bay trước tòa nhà chính “Dinh Độc Lập”.

< Giao lưu cùng lãnh đạo xã Hướng Lập và Cán bộ cs đồn Biên Phòng Cù Bai.

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng. Trong hai ngày 30/4 và mùng 01/5/1975, bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long, các Quân khu 8, 9 nắm thời cơ phát động quần chúng nhân dân nổi dậy, tiêu diệt và làm tan rã hàng ngũ địch, giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long, giải phóng vùng biển, đảo của Tổ quốc. Hơn một triệu quân ngụy và cả bộ máy ngụy quyền bị đập tan, chế độ thực dân mới do đế quốc Mỹ xây dựng ở miền Nam đã hoàn toàn sụp đổ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 của quân và dân ta toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước sau nhiều năm bị chia cắt nay đã thống nhất. Ước nguyện của Bác Hồ năm 1969: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” đã trở thành hiện thực.

Sau 30 năm chiến tranh, đất nước bị tàn phá nặng nề. Nhiệm vụ của Quân đội được Trung ương Đảng nêu rõ: “Ra sức bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, ... bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới và hải đảo của nước Việt Nam thống nhất”. Đồng thời “tích cực tham gia sản xuất, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội” cùng cả nước xây dựng  nền quốc phòng toàn dân vững chắc, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh. Theo nguyện vọng của nhân dân trong cả nước, ngày 17-10-1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định kỷ niệm Ngày thành lập QĐND Việt Nam (22-12-1944) cũng là Ngày hội Quốc phòng toàn dân. /

Bùi Hoằng
Hà Bình-Hà Trung-Thanh Hóa
Email: hoang***@gmail.com

Phố cổ Bao Vinh

(TBKTSG) - Từ giữa thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Bao Vinh là khu thương mại quan trọng, sầm uất của xứ Đàng Trong. Năm 1636, sau khi dời Phủ Chúa từ Phúc An vào Kim Long, chúa Nguyễn Phúc Lan đã chọn vị trí ngã ba Sình trông ra cửa khẩu Thuận An để mở cảng Thanh Hà và sau đó là Bao Vinh.

Cảng Thanh Hà ra đời trên phần đất ngày nay thuộc xã Hương Vinh, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế - nằm cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 cây số về phía đông bắc. Từ đầu thế kỷ XVII, các thương nhân người Hoa đến định cư, lập phố buôn bán, sinh sống bằng nghề buôn muối, gạo, nước mắm, hải sản rất phát đạt. Những thương thuyền khắp nơi như Hồng Kông, Ma Cao, Nhật Bản, Ấn Độ và từ một số nước châu Âu cập bến ở đây mua bán vật phẩm, hàng hoá.

Học giả Đào Duy Anh trong bài “Phố - première colonie chinoise du Thua Thien” đăng trong tập san Đô Thành hiếu cổ (BAVH 1943) đã tả: phố cổ bên bờ sông Hương là một khu thương mại sầm uất, trên cảng Thanh Hà có một khu phố lớn tên là “Đại Minh khách phố” nhộn nhịp bậc nhất Đàng Trong. Vào năm 1990, các nhà khảo cổ thuộc khoa Sử đại học Khoa học Huế có tìm thấy ở Bao Vinh nhiều đồ gốm sứ và tiền cổ niên đại Khang Hy (1662), Ung Chính (1723) và Càn Long (1736). Dulichgo

Bao Vinh là địa điểm thứ hai của chuỗi cảng thị Thanh Hà - Bao Vinh, phố chợ này hình thành khi cảng thị Thanh Hà đã bị bồi lắng, nằm lùi sâu vào đất liền và lụi tàn.

Xưa kia, Bao Vinh còn nổi tiếng về các nghề đóng hòm, nghề khảm, cẩn xà cừ, nghề dệt vải mặt nhỏ, nghề thợ nề, làm gạch, ngói (xóm Ngõa tượng Địa Linh), nghề làm bột (La Khê). Năm 1885 kinh đô Huế thất thủ vào tay Pháp, Bao Vinh bị tàn phá và mai một dần từ đó. Đến khi vua Thành Thái cho lập phố Đông Ba thì Bao Vinh xuống cấp hẳn.

Ngày còn bé, tôi thường từ thành phố Huế đến Bao Vinh thăm chị tôi (làm dâu), đi bằng xe ngựa chở người và cả hàng hóa, mãi đến năm 1960 mới có xe buýt và xe lam thay thế. Nếu đi đường thủy, thì dùng thuyền từ bến Đông Ba đến bến Bao Vinh. Ngày nay du khách thường đến Bao Vinh bằng thuyền du lịch theo sông Đông Ba - con sông đào chạy dọc phía đông kinh thành, rồi đi bộ một quãng ngắn tới cầu Bao Vinh. Qua khỏi cầu là đến một con phố nhỏ hẹp, chỉ dài hơn 300 mét. Phố cổ Bao Vinh một thời sầm uất, phố thị giao thương quan trọng của kinh đô Huế nay đã lụi tàn, khác hẳn với phố cổ Hội An, cảng thị phát triển cùng thời kỳ nay trở thành di sản văn hoá thế giới. Dulichgo

Năm 1991 Bao Vinh còn được 39 ngôi nhà cổ, niên đại từ 150 đến 200 năm tuổi. Đến nay, phần lớn bị hư hỏng nhiều, chủ nhà phá đi xây mới, chỉ còn 15 ngôi nhà cổ; trong đó, ngôi nhà của ông Lê Quang Chất ở số 105 khá nguyên vẹn. Các nhà cổ còn lại nằm nép mình dưới bóng những ngôi nhà cao tầng. Kèo cột, mái ngói không ngớt run rẩy trước giông bão, chịu sự hủy hoại khắc nghiệt của thời gian. Nhà mới mọc lên nhiều, khang trang chừng nào thì nhà cổ lại thấy tiều tụy, rách nát hơn. Cô Tôn Nữ Thanh Thiên, chủ nhân một ngôi nhà cổ, tỏ vẻ chán nản khi đưa tôi đi xem những mảng rêu xanh dày đặc trên mái ngói âm dương màu thâm nâu và trên những bức tường loang lổ gạch vỡ.

Đi thuyền trên sông Hương ngắm con phố Bao Vinh du khách có thể nhận ra nét hao hao giống phố cổ Hội An. Những ngôi nhà mái ngói liệt san sát, thấp lè tè. Con đường nhựa nhỏ chia hai dãy phố song song đối diện nhau. Đàng sau những ngôi nhà là dòng sông trong xanh, nhìn sang làng “hoa giấy ” Thanh Tiên và làng Sình chuyên nghề vẽ tranh thờ cúng. Phố chợ bây giờ nhộn nhịp và bề ngoài hiện đại hơn. Hiện tại Bao Vinh vẫn nổi tiếng về nhạc lễ, nhạc đình, những phường thợ mộc, thợ khảm, thợ nón, đóng hòm, làm hương…

Nhiều năm bị người địa phương lãng quên, thờ ơ, song Bao Vinh vẫn “đẹp” trong mắt du khách. Đâu đây vương vấn cái không gian lãng đãng đầy mê hoặc khi nắng chiều phủ vàng trên khu phố soi mình trên mặt nước sông Hương! Phố cổ hấp dẫn du khách nước ngoài, nhất là khách Nhật Bản, với phố - nhà cổ, cung Thiên Hậu, đền Quan Thánh, cầu một nhịp, cồn Bút, Nê Ngõa tượng đường (thờ ông tổ nghề làm ngói và thợ nề). Họ say mê ngắm nhìn và mua các món hàng chạm khảm, cẩn xà cừ, đan mây, tre, nứa… của Bao Vinh và cả nồi, niêu, bếp lò và nhiều sản phẩm bằng đất nung của các làng nghề Phước Tích, Nam Thanh.

Theo Vũ Hào (The Saigon Times)
toimedulich

Bí ẩn ở vùng đất những quả bí to

(ANTĐ) - Mấy năm nay, người dân ở vùng đất Mỹ Thọ (Phù Mỹ, Bình Định) trồng bí đỏ và bí xanh từ các hạt giống bình thường, nhưng bỗng nhiên bí lớn nhanh như thổi và quả nào cũng nặng hàng trăm kg. Sự khổng lồ bất thường của những quả bí này chỉ trồng ở Mỹ Thọ mới được.

Những quả bí nặng hàng trăm kg

Người đầu tiên trồng và phát hiện ra sự khác thường của những quả bí này là ông Trần Văn Đức. Một buổi sáng mai thức dậy, bỗng nhiên ông Đức thấy rất lạ khi khóm bí gia đình mình trồng cứ lớn mãi mà không chịu dừng lại. Ban đầu ông mang gạch ra xếp để làm giá đỡ quả bí. Cứ tưởng nó to lắm cũng chỉ bằng nồi cơm điện là cùng. Thế nhưng, càng ngày bí càng to thêm đến lúc bằng một vòng tay người ôm mới thôi lớn.

Từ quả bí lạ đầu tiên đầy ngỡ ngàng nhà ông Đức, cả xã Mỹ Thọ kéo đến xem như một sự kiện. Rồi người ta truyền tay nhau hạt giống từ những quả bí đầu tiên này đi trồng khắp xã. Tuy nhiên đến nay chỉ có thôn Chánh Trạch là cho quả cao nhất. Năm 2012, nhà bà Trần Thị Lan còn thu được quả bí nặng 120kg, nặng nhất từ trước đến nay. Hiện tại, với diện tích 18 héc ta, mỗi năm cho sản lượng trung bình 150 tấn, những quả bí khổng lồ này đã mang lại niềm vui và lợi nhuận nhiều mặt cho người dân Mỹ Thọ.

Ông Lê Vâng, người thâm niên nhiều năm trong nghề trồng loại bí này chia sẻ: “Không nhớ nổi mấy năm qua tôi đã có bao nhiêu niềm vui từ loại bí độc đáo này, cứ mỗi lần có chuyện muộn phiền ra nhìn những quả bí lớn nhanh và lỏn chỏn như đàn lợn là lại thấy quên hết muộn phiền. Vào mùa thu hoạch quả to một vòng ôm không hết. Thế rồi, tôi đam mê trồng cây bí này như một niềm vui và lòng khao khát. Bây giờ chẳng còn niềm hứng khởi nào lớn hơn việc trồng và chăm sóc loại bí này cả”.

Ông Vâng còn cho biết hầu như hàng ngày người dân Mỹ Thọ đều ăn loại bí này mà không biết chán. Hơn nữa, nhiều đàn ông ở đây còn cho rằng ăn loại bí này cho họ cảm giác được tăng cường sinh lực. Ông Lê Vâng cho hay cứ mệt mỏi hay mất ngủ và mà ăn 1 kg bí này vào là lại cảm thấy sung sức lại như thường ngay.

Từ nguồn giống đặc biệt được lưu truyền trong làng ngày càng có nhiều người dân Mỹ Thọ hào hứng trồng bí. Hơn 90% bí trồng ở Mỹ Thọ là bí đao vỏ xanh. Theo đa số hộ dân, loại bí đao vỏ xanh khổng lồ này có rất nhiều điểm khác biệt so với các loại bí khác như: giống lưu truyền sẵn trong làng, một quả bí giống có thể trồng được 1 sào, đa số các hộ dân đều trồng bí ngay tại vườn nhà mình. Khi cây bí bắt đầu bám dàn đã có thể tỉa lá, cắt tua để luộc hoặc xào làm rau ăn hàng ngày. Quả bí khi còn non 2-3 kg có thể hấp, luộc hay xay sinh tố rất ngọt, thơm và bổ dưỡng.

Khi bí thu hoạch quả xong còn có thể cắt thân cây bí thành từng đoạn ép lấy nước làm nước giải khát uống có tác dụng cao trong việc giải nhiệt, tiêu đờm. Cứ ép khoảng 30 gốc bí sau thu hoạch thì được 1 lít nước. Hiện tại, 1lít bán giá 30 nghìn đồng đến 40 nghìn đồng. Nếu thời tiết thuận lợi mỗi năm thu hoạch được 2 vụ, trung bình trừ mọi chi phí lời được 30 đến 35 triệu đồng/sào/năm. Quả bí sau khi thu hoạch nếu bảo quản tốt có thể để được 6-8 tháng mà không hư hỏng. Hơn nữa, loại bí đao khổng lồ ở Mỹ Thọ có ruột đặc màu trắng tinh nên rất chắc và nặng. Bí không hề có vị chua như loại bí bình thường.

Cứ nảy mầm là biến đổi gene

Lý giải về kích cỡ khổng lồ của quả bí xanh, Chủ tịch Hội nông dân Mỹ Thọ, ông Nguyễn Nam khẳng định, có được những quả bí nặng từ 70 đến 100 kg (nhỏ nhất là 40kg) này không phải do kỹ thuật mà do đất đai thổ nhưỡng vì kỹ thuật ở đây rất đơn giản và nếu cây bí này mang đi vùng khác trồng thì quả sẽ bé xuống 15 lần so với trồng ở Mỹ Thọ. Còn ông Hồ Trọng Lòng, người có nhiều năm trăn trở và gắn bó với sự phát triển của loại bí này cho biết: “Ở đây có được loại bí cho quả lớn như vậy là do có diện tích đất cát pha, phía dưới lại chứa một nguồn nước ngầm rất phong phú. Kỹ thuật chăm sóc và chi phí đầu tư cho 1 sào bí hết khoảng 1 triệu đồng, trong đó 300 ngàn đồng chi phí làm dàn, 700 ngàn đồng chi phí phân bón. Đặc biệt cây bí này chỉ cần bón phân một lần ngay khi mới trồng, thỉnh thoảng tưới nước nếu trời nắng nóng lâu ngày”.

Năm 2012 quá ngỡ ngàng trước những quả bí khổng lồ ở Mỹ Thọ, Thạc sỹ Nguyễn Văn Tùng, cán bộ Viện nghiên cứu sinh học Miền Trung đã đến xin một lượng lớn hạt giống gửi đi trồng thử nghiệm khắp các vùng đất mà ông cho rằng có nhiều đặc điểm thổ nhưỡng giống với Mỹ Thọ. Tuy nhiên, lạ thay tất cả những nơi đó bí không những không to lên mà còn nhỏ lại một cách bất ngờ. Ông Tùng cho biết: tôi thấy thổ nhưỡng ở vùng Quảng Bình, Cần Thơ khá giống Mỹ Thọ nên gửi hạt giống về đó trồng xem sao nhưng quả chỉ to bằng nắm tay.

Gen của những quả bí tí hon này lại có biểu hiện rất phức tạp, trong khi trồng ở Mỹ Thọ thì lại rất khổng lồ. Theo ông Tùng thì có lẽ được sự ưu ái đặc biệt của thiên nhiên, địa hình và thổ nhưỡng cộng với nguồn giống được lưu truyền trong làng nên Mỹ Thọ trở thành địa phương đầu tiên của Việt Nam trồng được loại bí đao vỏ xanh khổng lồ nặng từ 70 đến 100 kg/quả.

Thạc sỹ Nguyễn Văn Tùng cho biết ông cùng cộng sự đã nhiều lần mang mẫu đất ở một số thôn của Mỹ Thọ đi kiểm nghiệm nhưng kết quả mỗi lần lại khác nhau. Tuy nhiên có chung một điểm là cứ gieo hạt bí xuống, nảy mầm lên sẽ đột biến gen ngay. Cũng bởi sự đột biến này nên nên những quả bí mới lớn nhanh đến thế. “Trong đợt nghiên cứu đầu tiên chúng tôi chỉ ước lượng bí đạt 60 kg là cùng. Không ngờ kết quả thực tế cao gấp đôi” Thạc sỹ Nguyễn Văn Tùng tiết lộ.

Sẽ có ngày đưa bí đi Tây

Mặc dù có được có được giống bí kỳ lạ như vậy, nhưng vấn đề khó khăn lớn nhất đối với người trồng bí Mỹ Thọ vẫn là thị trường đầu ra cho sản phẩm vẫn rất hẹp và chưa có tính chất đại trà. Theo ông Hồ Trọng Lòng nguyên Chủ tịch UBND xã Mỹ Thọ, do gần đây chính quyền huyện, xã đã liên tục tuyên truyền giới thiệu hình ảnh bí đao khổng lồ tại lễ hội văn hoá miền biển, festival Tây Sơn, trong các lễ hội rau - củ - quả miền Nam... nên cũng có một số nơi biết đến bí đao vỏ xanh Mỹ Thọ và gửi yêu cầu đặt mua số lượng lớn.

Tuy nhiên thời gian gần đây do các thương lái trả giá quá thấp và ép giá nên bà con không muốn bán và trữ hết trong nhà. Ông Phạm Văn Trà, Trưởng phòng Nông nghiệp huyện Phù Mỹ bày tỏ rằng: Ban đầu chúng tôi còn dè dặt nhưng từ khi hình ảnh quả bí này đã được nhiều người biết đến và chất lượng loại bí này có nhiều điểm đặc biệt nên chúng tôi đã liên tục hỗ trợ xã quảng bá thương hiệu, đưa cây bí này thành giống cây truyền thống độc đáo của địa phương. Đánh giá về hiệu quả loại bí này ông Trà cũng khẳng định: “Đây sẽ là một sản phẩm đặc biệt của Mỹ Thọ.

Chúng tôi sẽ nỗ lực tuyên truyền giới thiệu sản phẩm tìm hướng đầu ra và vị thế vững chắc cho sản phẩm. Trên cơ sở lợi thế đã đạt được sắp tới sẽ khuyến khích nhân dân mở rộng thêm diện tích”. Không những thế, ông Trà còn bật mí thêm một dự định táo bạo rằng, khi chứng minh được rõ ràng những nét độc đáo, các chất dinh dưỡng có trong loại bí độc đáo này chúng tôi sẽ nghiên cứu cách đưa bí ra các thị trường quốc tế. Những hộ dân trồng bí ở Mỹ Thọ hy vọng loại bí khổng lồ này sẽ là nguồn thu nhập ổn định, lâu dài cho người dân.

Theo Huy Hoàng (An Ninh Thủ Đô)
toimedulich

Làng nhỏ, trái to

Dạo chơi Bắc Hà bằng xe ngựa

(DTO) - Trung tâm Thông tin và Xúc tiến du lịch tỉnh Lào Cai vừa phối hợp với một số xã nằm trong tua du lịch, chọn những con ngựa đã từng tham gia giải đua ngựa truyền thống của huyện Bắc Hà làm ngựa kéo xe chở khách du lịch.

< Để phát triển theo hướng chuyên nghiệp Trung tâm hướng dẫn bà con cách đóng xe ngựa chở khách du lịch đảm bảo an toàn.

Du khách tham gia tour du lịch này sẽ có cơ hội đi thăm các làng, bản du lịch sinh thái cộng đồng và làng nghề truyền thống nổi tiếng của các dân tộc: Mông, Tày, Nùng, Phù Lá tại các xã: Tả Chải, Bản Phố, Na Hối, Thải Giàng Phố...

Từ xưa, nơi đây còn được du khách biết đến bởi các làng nghề truyền thống: dệt thổ cẩm, chạm khắc bạc, rèn đúc, nấu rượu… mang đậm bản sắc dân tộc.Các sản phẩm thêu, dệt thổ cẩm, chạm khắc bạc, mây tre đan, rèn đúc, nấu rượu… được nhiều du khách tìm đến chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn.

< Cùng với chợ ngựa, tour du lịch thăm bản, làng bằng xe ngựa sẽ hấp dẫn và thu hút nhiều khách du lịch tới "Cao nguyên trắng".

Làng nghề truyền thống đúc lưỡi cày ở xã vùng cao Bản Phố, huyện Bắc Hà đã có “tuổi đời” lên đến 200 năm. Trước đây, làng nghề không chỉ tạo việc làm, thu nhập ổn định cho đồng bào Mông, mà còn thu hút khách du lịch.

Các làng nghề truyền thống ở Lào Cai còn được biết đến bởi các sản phẩm: rượu San Lùng, rượu ngô Bản Phố được nhân dân thôn San Lùng (Bát Xát) và thôn Bản Phố (Bắc Hà) sản xuất theo những bí quyết lâu đời.
Đây sẽ là những trải nghiệm rất thú vị cho các du khách. Những con ngựa được chọn là những con ngựa đã từng tham gia vào giải đua ngựa truyền thống của huyện Bắc Hà làm ngựa kéo xe du lịch. Bên cạnh đó, bà con dân bản cũng được hướng dẫn cách đưa đón và đóng xe ngựa nhằm đảm bảo an toàn cho các du khách.

Cùng với chợ ngựa, tua du lịch thăm bản, làng bằng xe ngựa sẽ hấp dẫn và thu hút nhiều khách du lịch tới "Cao nguyên trắng".

Theo Minh Phan (Dân Trí)
toimedulich

Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2014

Chợ Nga giữa Sài Thành

(BAVN) - Ngay trong lòng Tp. Hồ Chính Minh có một phiên chợ Nga luôn tấp nập du khách trong và ngoài nước tới thưởng lãm và mua sắm. Nhiều năm nay, chợ đã trở thành trung tâm giao thương hàng hóa lớn giữa các doanh nghiệp Việt Nam và Liên Bang Nga, đồng thời cũng là nơi gặp gỡ, giao lưu văn hóa, tìm hiểu lối sống, phong tục giữa công dân Việt Nam với công dân các nước trong khu vực và trên thế giới.

< Cổng mang hình lâu đài được dựng trước một siêu thị mini ở chợ Nga mô phỏng nét kiến trúc đặc trưng của Nga.

Theo những tiểu thương trong chợ thì chợ Nga ở Tp. Hồ Chí Minh “ra đời” năm 1989 tại Công ty Bách hóa Tổng hợp (Bến Chương Dương, Quận 1), nơi chuyên kinh doanh và xuất khẩu những mặt hàng thời trang mùa đông, đồ thủ công mỹ nghệ sang Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu. Năm 1991, do biến động chính trị tại Liên Xô nên khu chợ này tạm dừng hoạt động. Đến giữa năm 2009, Công ty Cổ phần Tống Linh Giang tái thành lập lại chợ Nga tại cao ốc Central Garden (328 Võ Văn Kiệt, phường Cô Giang, Q.1).

< Thời trang luôn là mặt hàng được buôn bán nhiều nhất tại chợ Nga.

Chợ Nga ngày nay có 3 tầng nhưng hoạt động mua bán chủ yếu diễn ra ở tầng triệt và tầng 1, tầng 2 dùng làm nơi đóng gói hàng hóa, thương phẩm. Hàng hóa ở chợ Nga rất phong phú nhưng mặt hàng chính tại đây vẫn là hàng thời trang chuyên dùng cho người dân xứ lạnh như: khăn choàng cổ, găng tay len, mũ len, áo lông vũ, áo bành-tô, áo khoác da rất dày và nặng...

< Các mặc hàng thời trang kinh doanh ở chợ Nga đa dạng và phong phú, giá cả cũng vừa túi tiền.

Các gian hàng tại chợ nằm san sát nhau, chỉ chừa một nối đi nhỏ vừa người để khách hàng di chuyển khi vào tham quan, mua sắm. Tầng 1 được nối với tầng triệt bởi thang máy, tại tầng này, chợ còn bán thêm đồ trang sức, túi sách da xuất khẩu, đồ gia dụng và vật dụng cá nhân.

< Du khách nước ngoài chọn mua giày tại một quầy hàng bán giày dép xuất khẩu ở chợ Nga.

Bà Nguyễn Thị Thủy, chủ quầy hàng quần áo Thủy Bepa cho biết: “Tôi kinh doanh mặt hàng quần áo xuất khẩu sang Nga và một số nước Đông Âu đã được 24 năm, ngày xưa bán ở Tiệm tạp hóa Đông Âu, Quận 1.

< Du khách Nga chiếm đến 50% lượng khách thường xuyên đến mua sắm ở chợ Nga.

Từ khi chợ Nga thành lập, tôi chuyển hẳn tới đây, việc kinh doanh thuận lợi hơn rất nhiều. Hiện tại đã có 2 cửa hàng “độc” nhất ở khu chợ Nga này vì chuyên bán các mẫu quần áo cỡ “big size” (cỡ khổng lồ) dành cho người nước ngoài. Buôn bán với người Nga rất thích, vì họ thân thiện và sòng phẳng...”

Đi sâu về phía bên trái là một nhà hàng Nga, nơi chuyên phục vụ du khách và người mua sắm các món ăn đặc trưng Nga - Việt, thuận tiện cho mọi thực khách khi tới đây. Nằm cạnh đó là một siêu thị mini chuyên bán thực phẩm và đồ chơi đặc trưng của Nga. Dulichgo

< Một số mặt hàng chống rét đặc trưng được buôn bán tại chợ Nga.

Chị Nguyễn Thị Khánh Vân (31 tuổi), chủ siêu thị cho biết, từ một cơ duyên tình cờ, chị nắm bắt được nhu cầu tiêu dùng thực phẩm bản địa của người Nga tại Việt Nam và của các du khách nước ngoài, người dân Việt thích ăn đồ Nga nên đã nảy ra ý tưởng nhập khẩu thực phẩm đặc trưng Nga về Việt Nam bán như; hạt kiều mạch, mỡ muối, trứng cá muối, trứng cá đen, pate gan ngỗng, bánh mì đen, xúc xích... Ngoài ra, siêu thị của chị còn bán các loại búp bê Matrioska, đây cũng là một trong những vật phẩm tiêu biểu và tượng trưng của xứ sở Bạch Dương...

< Chợ Nga đang dần trở thành Trung tâm thương mại chuyên về quần áo xứ lạnh của người dân Việt, Nga và du khách quốc tế.

Ông Nikolai Zhevolz, người Nga, sinh sống tại Tp. Hồ Chí Minh cho hay: ”Tôi thường đến chợ Nga vào những ngày cuối tuần để mua thức ăn của quê hương và sắm một số đồ dùng cần thiết như quần áo, giày, dép, mũ hay ba-lô...

< Một số đồ lưu niệm đặc trưng của Nga được bày bán tại siêu thị mini bên trong chợ Nga.

Với tôi, chợ Nga là một địa điểm lí thú, bởi khi tới đây, tôi có cơ hội được gặp gỡ bạn bè hoặc những người đồng hương để trò chuyện, tán gẫu. Không gian và những mặt hàng nơi đây rất quen thuộc khiến tôi đỡ nhớ nhà hơn rất nhiều. Hơn nữa, tại đây tôi còn được tiếp xúc với những người bán hàng Việt Nam rất thân thiện và vui tính...”.

< Một loại thực phẩm đặc trưng của Nga tại siêu thị mini trong chợ Nga.

Ông Vũ Ánh Dương, Trưởng Ban quản lý chợ Nga cho biết: ”Sau sự kiện Hoa hậu thế giới 2008 Ksenia Sukhinova đến tham quan chợ Nga tại Tp. Hồ Chí Minh (5/2009), nhiều người nước ngoài biết đến chợ Nga hơn. Điều này tạo tiền đề cho sự phát triển của chợ Nga từ 80 gian hàng lên đến 200 như ngày nay, trở thành nơi tham quan, mua sắm quen thuộc đối với đa số du khách Nga, Hungary, Bungary, Cộng hòa Séc, Đức, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản... mỗi khi đến Tp. Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung.

< Một số thực phẩm Nga khác được bày bán tại siêu thị mini trong chợ Nha, trong đó có hạt kiều mạch...

Trong đó, khách Nga chiếm đến 50%, bao gồm du khách và công dân Nga sinh sống, làm việc lâu năm tại Tp. Hồ Chí Minh và Bà Rịa - Vũng Tàu, còn lại là khách Việt và du khách quốc tế khác".

< Các loại búp bê Matrioska, một trong những vật phẩm tiêu biểu và tượng trưng của xứ sở Bạch Dương được bày bán rất nhiều tại siêu thị mini trong chợ Nga.

Hiện tại, Công ty Cổ phần Du lịch Sông Tiền (Tp. Mỹ Tho,Tiền Giang) đã mở tour du lịch đưa du khách tới tham quan và mua sắm tại chợ Nga, điều này cho thấy nơi đây có tiềm năng để mở rộng, phát triển các dịch vụ du lịch, là cơ hội để quảng bá hình ảnh Việt Nam tới bạn bè năm châu, góp phần vào tiến trình Hội nhập kinh tế Việt Nam với trường quốc tế.

Theo Đỗ Văn - Nguyễn Luân (Vietnam.Vnanet.vn)
toimedulich